Tựa

Bộ Kỳ Môn Độn Giáp này tương truyền là của hai vị tiên sinh Trương Tử Phòng và Gia Cát Lượng làm ra bí kíp. Ở trong nói về hành quân xuất trận cho đến chiệm nghiệm ẩn độn mọi việc, không việc gì là không có ứng nghiệm, bởi vì Trương Tử Phòng được Hoàng Thạch Công chân truyền, phò Hán Cao Tổ xuất sư và điền thành tổng cục 18 cách mà thành công quyết thắng. Thục Khổng Minh từ Long Trang ra, phò nhà Hán, giúp Tiên đế chia bá thiên hạ. Những thần cơ diệu toán của ngài không gì không có căn cứ vào Tam Kỳ Cửu Cung. Không vì đời xa năm thẩm, sách vở sai biệt mà Lưu Bá Ôn tiên sinh sưu tập mọi bí san định thành sách mà có thể xem tóm được hết. Cho đến nay, những nhà xuất bản khác bản đã lấy ngoa truyền, sai ngoa, dù tý chút hào lý mà mất đi ngàn chân lý. Nay Kế Cổ Tô chủ nhân kiếm được bí bản nguyên khắc giao cho làm bản in đó, hiệu đính lại tinh tường, hào lý không sót, xứng đáng mà bộ sách để bên gối đầu.

Dân quốc năm thứ 3 Giáp Dần, đấu thu.

Tiên Đường Hồng Bảo Vinh cẩn thức.




















































KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TÔNG TỰ
________________

(Lời tựa)

Trộm thấy khi Hoàng đế đánh nhau với Suy Vưu ở Trác Lộc, mộng được thần trời trao truyền bùa phép, bèn sai Phong hậu diễn ra kỳ môn. Độn giáp có từ đó.
Đế Nghiêu sai Đại Vũ đi trị thủy, được Huyền Nữ truyền cho văn thư, mà nhận rùa thiêng sông Lạc. Lưng mang 9 trù. Độn giáp được xếp thành từ đó.
Hán Tử Phòng gom thành 18 cục mà thành công quyết thắng. Thục Khổng Minh chia ra 3 Kỳ mà sáng được nghiệp gian nan.
Trước bày 9 cung trên bàn tay, cung Khảm ở 1, Khôn ở 2, Chấn 3, Tốn 4, Trung ương 5, Kiền 6, Đoài 7, Cấn 8, Ly 9 mà hình thành tạo hóa. Rồi chia 8 quái trên bàn: Ly vị ở Nam, Khảm vị ở Bắc, Chấn Đông, Đoài Tây, Tốn Đông Nam, Khôn Tây Nam, Cấn Đông Bắc, Kiền Tây Bắc mà định được 4 phương 4 góc. Ngang dọc thành số 15, mà làm 3 Nguyên. Lấy bát quái chia 8 tiết mà tiết lệnh được toàn. Lấy 1 tiết thông 3 Khí mà khí hậu đầy đủ. Gặp Giáp Kỷ là Phù đầu, phải có kỳ nhuận để bố cục. Phù nhanh tiết chậm thì xét Giáp Kỷ đến nơi nào mà dùng phép Siêu thêm, Tiết trước Phù sau thì nghiệm xem nhật thần Giáp Kỷ ở đâu để đặt phương tiết khí.
Từ Tý đến Ngọ thuộc mặt Đông, là sau khí Đông chí, tính Độn dương trải qua các cung Khảm Cấn Chấn Tốn. Nghi đi thuận mà Kỳ đi nghịch, do trực Phù bay thuận trên 9 cung.
Từ Ngọ đến Tý thuộc mặt Tây, là sau Hạ chí, tính Độn âm, trải qua các cung Ly Khôn Đoài Kiền. Kỳ bày xuôi mà Nghi bày nghịch, do Trực phù bay nghịch trên 8 quái.
Nhận 9 cung, yên 9 tinh, làm Trực phù mà cát hung chia được. Như cung Khảm nhận Thiên Bồng làm Phù, thì Thiên nhuế ở 2, Thiên Xung 3, Thiên Phụ 4, Thiên Cầm 5, Thiên Tâm 6, Thiên Trụ 7, Thiên Nhậm 8, Thiên Ương 9.
Phối 8 quái, dựng 8 Môn làm Trực Sử mà phán được dở hay (hưu cữu). Như cung Kiền phối Khai là Trực Sử, thì Hưu môn ở Khảm, Sinh môn ở Cấn, Thương Môn ở Chấn, Đỗ môn ở Tốn, Cảnh Môn ở Ly, Tử môn ở Khôn, Kinh môn ở Đoài.
Rồi Trực Phù theo can giờ, mà can giờ trọ trong nơi Trực Phù khởi đầu.
Tìm trực Sử ở Chi giờ mà Chi giờ trọ trên phương Trực Sử.
Thiên Bàn 9 tinh, cộng Kỳ Nghi, mỗi giờ mỗi đổi là tượng giờ chuyển tròn.
Địa Bàn 9 tinh với Kỳ Nghi, cứ 5 ngày thì rời. Đạo Đất trinh tĩnh là đó.
Thiên Bàn tới Địa, xét được cát hung mòn nở. Địa bàn thừa Thiên đoán được hay dở đầy vơi (hưu cữu danh hư).
- Giáp Tý thiên Giáp Tý địa là phục ngâm. Hễ thấy Môn Phù đầu trên bản cung, đều theo lệ này, và không dùng làm gì được.
- Thiên Ương Đất gặp Thiên Bồng Trời (Thiên Anh gia ly 9) là Phản Ngâm. Hễ thấy Môn trên cung xung, đều theo lệ này, nên lánh đi thì hơn.
- Cát môn tới 3 Kỳ, mọi việc cầu đều vừa ý.
- Kỳ môn vào Mộ, cố mà làm cũng không thành.
- Ất Bính Đinh, Sinh Hưu khắc hợp với thái Âm, đó gọi là Tam Toàn (đủ ba). Kỳ cát, Âm hoặc thiếu một, thì xem phương sau lưng, thế gọi là nhị kỳ (hai kỳ).
- Lục Nghi kích hình (sáu Nghi đâm đánh) thật là rất ác, không dùng làm gì được.
- 9 Độn mà hợp Môn thì rất lợi, làm được rất nhiều.
- Khai môn hợp với Ất, ở trên ngôi Kỷ, không phạm Kỳ vào Mộ, Môn bị bách gọi là Địa Độn, ở Ngôi Tử Vi, được Tinh Nhật che chở.
- Nguyệt kỳ ở trên Đinh gặp Sinh môn, không phạm Kỳ mộ, Môn bách gọi là Thiên Độn, che Hoa Cái (lọng hoa), được Tinh Nguyệt che chở.
- Môn Hưu và Kỳ Đinh, hợp với Thái Âm, cùng một địa bàn, gọi là Nhân Độn, cũng có thể ra quân.
- Kỳ Bính cùng Sinh môn, hợp Cửu Thiên là Thần Độn.
- Tinh Kỳ gặp Hưu môn là Quỷ Độn.
- Long Độn thì Nguyệt Kỳ hợp Hưu Quý, hoặc trên Khảm.
- Hổ Độn thì Ất Kỳ tới Sinh môn, hoặc ra ở Cấn.
- Phong Độn thì Nhật Kỳ Khai môn, tới cung Tốn.
- Vân Độn thì Nguyệt Kỳ Khai môn, hợp ở Thân (Khôn).
Đây là 9 Độn danh, nhà binh đem dùng không gì nghiệm và không thấy ứng.
Tinh có Âm Dương, Môn có mở Khép, duy Thiên Cầm không có định vị, thuộc trung cung mà gởi ở Tây nam.
Tòng Tam tị ngũ (theo 3 tránh 5) là hại, là sinh.
- Đất thắng có 3: Trực phù trời lâm Thiên Ất. Đại tướng nên đóng đấy là 1.
Sau Trực phù 1 cung là Cửu thiên, quân ta nên đóng đấy là 2, cửa Sinh (cung Cấn) địa bàn hợp với cung Tam kỳ. Nên dẫn quân từ cửa Sinh đánh sang cửa Tử thì trăm chiến trăm thắng, đấy là 3.
- Không kích được có 5: cung Thiên Ất, Cửu Thiên mà kích tất chịu ương vậy, đó là 1 và 2.
Sinh môn Cửu Địa mà phạm, tất chịu hại ấy, đó là 3 và 4.
Trực phù mà tới cùng Trực sử, dụng binh mà đột vây thúc trận nơi ấy thì tướng chết quân tan, đó là 5.
Giờ Mạnh Giáp mà hình Môn, nơi ấy không thể ra vào, chỉ nên ẩn tích.
Giờ Trọng Giáp, Dương ở trong, chỉ nên giữ vững, lợi sự tàng binh.
Giờ Quý Giáp, Âm ở trong Dương ở ngoài, nên chia chủ khách rồi quyết thư hùng.
Sáu Ất là Thiên Đức, ra nơi đó mà tiến đến Nhật kỳ, có thể quyết thắng lúc nào (khả quyết thắng ư vị nhiên chi nội).
Sáu Bính là Thiên Uy, ví không là thời lửa Bính nấu Kim, thì nên phóng bại ở khi không chắc chắn.
Giờ tới Sáu Đinh, gọi là Ngọc nữ tiềm hình (người ngọc ẩn hình), ẩn nấp không thấy dấu vết.
Giờ tới Sáu Mậu gọi là Thừa Long vạn Lý (cưỡi rồng muôn dặm), gặp hung đồ mà chúng trốn sạch.
Sáu Kỷ là địa hộ (ngõ đất), nên làm ngầm, dùng trộm cắp.
Sáu Quý là Thiên Cương (vó trời), xét cao thấp cho lợi việc trốn.
Sáu Canh mà ra trận, lầm lỗi tới nơi tướng soái.
Sáu Tân mà ra quân, tai họa tất tới bản thân.
Sáu Nhâm là Thiên Lao, họa bay đến gấp.
Sáu Giáp là đầu giờ, ứng vào cục rất linh.
- Sáu Giáp trên Sáu Bính là Thanh Long phản thủ (rồng xanh ngoái cổ) mọi việc làm đều không trở ngại.
- Sáu Bính trên Giáp là Phi điểu điệt huyệt (chim bay về tổ), việc làm gấp sẽ thành.
- Ất trên Tân là Thanh Long đào tẩu (rồng xanh chạy trốn) mà tài vật rơi mất.
- Tân trên Ất là Bạch Hổ xương cuồng (hổ trắng kêu rống) mà thân thể hủy thương.
Đinh trên Quý là Chu tước đầu giang (Sẻ son lao sóng) mà kiện tụng tù ngục dấy lên.
- Quý trên Đinh là Đằng xà yêu kiều ( rắn bay uốn éo) thì lo sợ tất đến.
- Sáu Canh trên Phù là Phục cung (cung nép), không lợi cho Chủ mà lợi cho Khách.
- Trực phù trên Canh là Phi cung cách (cách cung bay) không quý ở chiến mà quý ở mưu (Trực phù trên Canh là Trực phù gia địa bàn Canh hay Giáp gia Canh).
- Canh trên Trực phù là Thái Bạch cách Thiên ất phục, binh ngoài tới xâm mà chủ tướng tất bại.
- Trực phù trên Sáu Canh là Thái Ất cách Thái Bạch (hay Thiên Ất phi), cố ra quân mà tướng khách làm ngăn trở.
- Trực Sử tới Canh, gọi là Dã chiến (chiến ngoài đồng), binh tuy tinh nhuệ mà mắc khốn.
- Canh trên Trực Sử tên gọi đồng cung (cùng cung), tướng tuy kiêu mà không toại chí.
- Canh trên Sáu Bính đó là Thái Bạch nhập Huỳnh hoặc (sao Kim vào sao Lửa), thì giặc tất đến.
- Bính trên Sáu Canh, đó là Bính Hỏa nhập Kim hương (Lửa Bính vào quê Kim) thì giặc tất rút lui.
Cách này Chủ Khách đều không lợi, đừng có ỷ vào việc thấy được Kỳ Môn mà cố dùng.
- Thiên Địa Đại cách (cách Trời Đất lớn) là dưới Canh có Quý.
- Thiên Địa Tiểu cách (cách Trời Đất nhỏ) là trên Nhâm có Canh.
- Canh trên Kỷ, quân lính chết ở dọc đường.
- Kỷ trên Canh, tướng binh mắc ách ở đường nguy.
- Tuế cách là khi Tuế gặp Canh.
- Nguyệt cách là Canh trên ngày Sóc kiến.
- Canh tới Can ngày là cách Phục can (can nép) thì chủ nhân gặp thương.
- Can ngày trên Canh là Phi Cung cách (cách cung bay) thì tướng khách không thắng.
- Can giờ khắc Nhật là Ngũ bất Ngộ (5 không gặp) thì mất sáng!
- Bính trên can ngày gọi là Bột Loạn (Trái loạn) thì kỷ cương điên đảo.
- Trời có 3 Môn: Thiên xung, Tiểu cát, Tòng Khôi. Đất có 4 hộ là trong tháng gặp Trừ, Nguy, Định, Khai.
- Trực sử giao nhau là Thiên Ất có ở đó.
- Giờ Trực tới nơi là hành cung của Thiên Ất.
- Trực phù ấy cùng với Thiên Ất, có nạn, nên bỏ.
- Môn theo Thần sau 1 cung là Cửu Thiên, sau 2 cung là Cửu Địa. Đất có Cửu thiên lợi việc dương binh. Dưới cung Cửu Địa lợi việc phục binh.
- Trước 3 cung là Lục Hợp, 2 cung là Thái Âm. Trong Lục Hợp trốn lánh là lợi. Đất Thái Âm đặt Phục rất nên.
- Phương Tam Trá ( ba dối), cử động đều lợi, đó là Hưu, Sinh, Khai hợp Ất, Bính, Đinh, Cửu Địa, Thái Âm mà thế.
- Đất Ngũ Giả (5 giả) đều có cát hung. Đó là Đỗ Tử Kinh Thương Cảnh, hợp Cửu Địa, Thái Âm, Ất, Bính, Đinh, Kỷ, Quý mà nên.
Như sáu Mậu là thuật không chắc, Sáu giáp có diệu âm phù (bùa âm), đó là tâm giác đạo không có lời truyền. Có chí về nước yên dân, ra làm tướng quân, vào làm Tướng tể không thể không biết được. Ô hô! Chia Trời Đất ở trên tay nắm 81 (9x9=81 bước đi của Cửu tinh), la liệt các tinh tú ở trong dạ. Gió sấm theo từng hơi thở. Thần quỷ nghe theo chỉ huy. Văn bí ở nơi kho Trời nhà Bá để toán thần vận trù quyết thắng ư!

Năm Đại sinh Hồng Vũ thứ 4, tháng ,
Ngày 8 tề tựu
Lưu Cơ bá Ôn cầu thúc./.

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN

Quyển 1

Yên ba điếu tấu ca

1/ Âm Dương thuận nghịch diệu nan cùng. Nhị chí hoàn hương nhất cửu cung. Diệu năng liễu đạt âm dương lý, thiên địa đồ lai nhất chưởng trung.
2/ Hiên Viên Hoàng đế chiếm Vưu. Trác Lộc kinh kim khổ vị hưu. Ngẫu mộng thiên Thần thọ Phù quyết. Đăng đàn chí tế cấn kiền tu.
3/ SuyThần long phụ Đồ xuất Lạc thủy Thái phương hàm thư bích vân lý. Nhân mệnh Phong Hậu diễn thành văn. Độn Giáp Kỳ môn tòng thử thủy.
4/ Nhất thiên bát thập đương thời cho. Thái công trắc vi thất thập nhị. Đãi ư Hán đại trương tử Phòng. Nhất thập bát cục vị tinh nghệ.
5/ Tiên tụ chưởng thượng bày cửu cung. Tung hoành thập ngũ đồ kỳ trung. Thứ tương bát quái phân bát tiết. Nhất khí thông tam vi chính tông.
6/ Âm Dương nhị độn phân thuận nghịch. Nhất khí tam nguyên nhân mạc trắc.Ngũ nhật đồ lai hoán nhất nguyên. Tiếp khí siêu thần vi chuẩn tắc.
7/ Nhận thủ cửu cung vi cửu tịnh. Bát môn hựu trục cửu cung hành. Cửu cung phùng Giáp vi Trực phù. Bát môn trực sứ tự phân minh.
8/ Phù thượng chi môn vi Trực sứ. Thập thời nhất dịch kham bàng cứ. Trực phù thường di gia thời can. Trực sứ thuận nghịch Độn trung khứ.
9/ Lục Giáp nguyên hiệu Lục Nghi danh. Tam kỳ tức thị Ất, Bính, Đinh. Dương độn: thuận Nghi, Kỳ nghịch bố. Âm độn: nghịch Nghi, Kỳ thuận hành.
10/ Cát môn ngẫu nhĩ hợp Tam kỳ. Vạn sự khai tam vạn sự nghi.Cánh hợp tong bang gia kiểm điểm. Dư cung bất khả hữu vi tì.
11/ Tam kỳ đắc sử thành kham sứ. Lục Giáp ngộ chi phi tiêu bố. Ất phùng Khuyển mã; Bính: thử Hầu; Lục đinh: Ngọc nữ phùng Long Hổ.
12/ Hựu hữu tam kỳ du Lục Nghi. Hiệu vi Ngọc nữ thủ môn phi. Nhược tác âm tư hòa hợp sự. Tòng quân đàn hướng thử trung suy.
13/ Thiên tam môn hề địa tứ hộ. Vân quân thử pháp như hà xứ. Thái xung , Tiểu cát dữ Tòng Khôi.Thử thị thiên môn tu xuất lộ. Địa hộ trừ, Nguy, Định dữ khai. Cử sự giai tòng thử trung khứ.
14/ Lục Hợp, Thái Âm, Thai thường quân.Tam thời nguyên thị Địa tư môn. Cánh đắc Kỳ môn tường chiếu diệu. Xuất môn bách sự tổng hân hân.
15/ Thiên xung, Thiên mã tối vi quý. Thốt nhiên hữu nạn nghi đào tị. Đãn năng thừa ngự thiên mã hành. Kiếm kích như sơn bất túc úy.
16/ Tam vi sinh khí, ngũ vi tử. Thắng tại tam hề suy tại ngũ. Năng thức du tam tị ngũ thì. Tạo hóa chân cơ tu ký thử.
17/ Tựu trung Phục ngâm tối vi hung. Thiên Bồng gia trước địa Thiên Bồng. Thiên Bồng nhược đảo Thiên Ương thượng. Tu tri tức thị Phản ngâm cung. Bát môn Phản phục giai như thử. Sinh tại sinh hề, Tử tại tử. Tựu thị hung tú đắc Kỳ Môn. Vạn sự giai hung bất kham sứ.
18/ Lục Nghi kích hình hà thái hung. Giáp Tý Trực phù sầu hướng Đông. Tuất phùng vị thượng, Thân hình Hổ. Dần tị, Thìn Thìn Ngọ hình Ngọ.
19/ Tam Kỳ nhập Mộ nghi tế suy. Giáp nhật khá kham nhập Khôn cung. Bính Kỳ thuộc hỏa, hỏa mộ Tuất. Thử thời chư sự bất nghi vi.Cánh hiềm Ất kỳ lai lâm lục. Đinh kỳ lâm bát diệc đồng thì.
20/ Hựu hữu thời can nhập Mộ trung. Khóa trung thời hạ kỵ tương phùng. Ất vị. Nhâm Thìn, dữ Bính tuất. Tân Sửu đồ lai diệc đồng hưng.
21/ Ngũ bất ngộ thời Long bất tinh. Hựu vi Nhật nguyệt tổn quang minh. Thời can lai khắc Nhật can thượng. Giáp nhật tu tri thời kỵ canh.
22/ Kỳ dữ Môn hộ cộng Thái Âm. Tam ban nan đắc cộng gia lâm. Nhược hoàn đắc nhị diệc vi cát. Cử thác hành tàng tất toại tâm. Cánh đắc trực phù trực sử lợi. Binh gia dụng sự tối vi quý. Thường tòng thử địa kích kỳ xung. Bách chiến bách thắng quân tu ký.
23/ Thiên Ất chi thần sở tại cung. Đại tướng nghi cư kích đối xung. Giả kim Trực phù cư Ly vị. Thiên ương tọa thủ kích Thiên Bồng.
24/ Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu: dương thì. Thần nhân thiên thượng báo quân tri. Tọa kích tu bằng thiên thượng kỳ. Âm thì địa hạ diệc như thử.
25/ Nhược kiến tam kỳ tại ngũ dương. Thiên nghi vi khách thị cao cường. Hốt nhiên phùng trước ngũ âm thượng. Hựu nghi vi chủ hảo suy tường.
26/ Trực phù tiền Tam Lục Hợp vị. Thái Âm chi thần tại tiền nhị. Hậu nhất cung trung vi Cửu thiên. Hậu nhị chi thần vi Cửu địa.
27/ Cửu Thiên chi thượng hảo dương binh. Cửu địa tiềm tàng khả lập doanh. Phục binh dẫn hướng Thái Âm vị. Nhược phùng Lục hợp lợi đào hình.
28/ Thiên, Địa, Nhân phân tam độn danh. Thiên độn Nguyệt tinh Hoa cái lâm. Địa độn Nhật tinh tử vi tế. Nhân độn dương tri thị Thái Âm.
29/ Sinh môn Lục Bính hợp Lục Đinh. Thủ vi Thiên độn tự phân minh. Khai môn Ất Kỷ hướng Kiêm tinh. Địa độn chinh nghi nhân viên tẩu.
30/ Hưu môn Lục Đinh cộng Thái Âm. Dục cầu nhân độn vô quá thử. Yếu tri tam độn hà sở nghi. Tàng hình độn tích tử vi mỹ.
31/ Canh vi Thái Bạch. Bính vi Huỳnh. Canh Bính tương gia thùy hội đắc. Lục Canh gia Bính Bạch nhập huỳnh. Lục Bính gia Canh Huỳnh nhập Bạch. Bạch nhập Huỳnh hề tặc các lai. Huỳnh nhập Bạch hề tặc tức khứ.
32/ Bính vi Bột hề canh vi cách. Cách tắc bất thông Bột loạn nghịch. Bính gia Thiên Ất vi Phục Bột. Thiên Ất gia Bính vi Phi Bột. Canh gia Nhật Can vi Phục Can. Nhật can gia canh phi can cách. Gia nhất cung hề chiên vu dã. Đồng nhất cung hề chiên ư quốc.
33/ Canh gia trực phù Thiên Ất phục. Trực phù gia Canh Thiên Ất Phi. Canh gia Quý hề vi đại cách. Gia Kỷ vi Hình tối bất nghi;. Gia Nhâm chi thời vi Tiểu cách. Hựu hiềm Niên Nguyệt Nhật thời phùng.
34/ Cánh hữu nhất ban Kỳ cách giả. Lục canh cẩn vật gia tam Kỳ. Thử thời nhược dã hành binh khứ. Sất mã chích luân vô phản kỳ.
35/ Lục Quý gia Đinh xà yêu kiều. Lục Đinh gia Quý, Tước đầu giang. Lục Ất gia Tân: Long đào tẩu. Lục Tân gia Ất: Hổ xướng cuồng. Thính quan tứ giả thị hung thần. Bách sự phùng chi mạc thác thủ.
36/ Bính gia giáp hề Điểu điệt huyệt. Giáp gia Bính hề Long phản thủ. Chỉ thử nhị giả thị cát thần. Vi sự như ý thập bát cửu.
37/ Bát môn nhược ngộ Khai, Hưu, Sinh. Chư sư phùng chi giai xúng tình. Thương nghi bộ liệp chung tu hoạch. Dô bảo yêu già cập ấn hình. Cảnh thượng đầu thư tịnh phá trận. Hình năng cầm tụng hữu thanh danh. Nhược vấn Tử môn hà sở chủ. Chỉ nghi điêu tử dữ hành hình.
38/ Bồng, Nhậm, Xung, Phụ Cầm: dương tinh. Ương, Nhuế, Trụ, Tâm: âm tú danh. Phụ, Cầm Tâm tinh vi thượng cát. Xung, Nhậm tiểu cát vị toàn hanh.Đại hung Bồng, Nhuế bất kham hủ. Tiểu hung Ương, Trụ bất tinh ninh. Tiểu hung vô khí biến vi cát. Đại hung vô khí phước bình bình. Cát tú cánh năng phùng vượng tướng. Vạn cử vạn toàn công tất thành. Nhược ngộ hưu tù tinh phế, một. Khuyến quân bất tất tẩu tiến trình.
39/ Yêu thúc cửu tinh phối ngũ hành.Tu cầu bát quái khảo Hy kinh. Khảm-Bồng: thủy tinh. Ly_Ương: hỏa.Trung cung Khôn cấn thổ vi doanh.Kiền Đoài vi Kim. Chấn Tốn Mộc. Vượng tướng hưu tù khán khinh.
40/ Dữ ngã đồng hành tức vi ngã. Ngã sinh vi nguyệt thành vi Vượng. Phế ư Phụ Mẫu, hưu vi tài. Tử vi quỷ quan hề chân bất vong. Giả kim Thủy tú hiệu Thiên Bồng. Tướng tại sơ Đông dữ trọng Đông. Vượng ư chính, nhị; hưu: tứ, ngũ. Kỳ dư phỏng thử than nghiên cùng.
41/ Cấp tòng thần hề hoãn tòng môn. Tam Ngũ phản phục thiên đạo hanh. Thập can gia phù nhược gia thác. Nhập mộ Hưu tù các sự nguy. Đẩu tinh vi Sứ tối vi cát. Khởi cung thiên Ất dụng vô di. Thiên mục vi khách Địa nhĩ chủ. Lục giáp suy hợp vô sai lý. Khuyến quân mạc thất thử huyền cơ .Đồng triệt cửu tinh phù minh chủ.
42/ Cung chế Kỳ môn tắc tất bách. Môn chế kỳ cung thị bách hung. Thiên cương tứ trượng vô tẩu lộ. Nhất nhị cương đi hữu lộ tung. Tam chí tử cung nan hối tị. Bát cửu cao trương nhậm Tây Đông.
43/ Tiết khí suy di thời hậu định. Âm Dương thuận nghịch yếu tinh thông. Tam nguyên tích số thành lục kỳ. Thiên địa vị thành hữu nhất lý. Thỉnh quan ca lý chân diệu quyết. Phi thị chân hiền mạc tương dữ.


Dịch nghĩa

Bài ca

Ông già buông câu trên khói sóng.

1/ Âm Dương xuôi ngược diệu khôn cùng. Hai Chí (Đông chí và Hạ Chí) xoay vần trải chín cung. Nếu hiểu âm dương, cùng lý lẽ. Thu cả đất trời trong bàn tay.
2/ Hiên Viên Hoàng đế đánh Suy Vưu. Trác Lộc bao năm khổ đã nhiều. Mộng được thần trời truyền phép lạ. Dựng đàn cúng tế tạ ơn cao.
3/ Sông Lạc Rồng thiêng đội Đồ lên. Lưng Trời chim Phượng ngậm thơ truyền. Nhâm sai Phong Hậu thành văn tập. Độn giáp Kỳ môn tụ khởi tiền.
4/ Một ngàn tám chục số sơ khai. Chủ tướng dọn thành bảy hai cục. Triều Hán Trương Lương thêm gọn ghẽ. Gom trong mười tám cục an bài.
5/ Dàn trước trên tay đủ chín cung. Mười lăm ngang dọc số lưu thông (1). Rồi sau tám quái chia thời khí (2). Mỗi khí ba Nguyên chuyển chẳng cùng.
6/ Âm Dương hai độn chia xuôi ngược (4). Mỗi khí ba Nguyên là mực thước (3). Cứ hết năm ngày đổi một Nguyên. Tiếp khí Siêu thần, thông mới được.
7/ Chín sao giải khắp chín cung vòng. Tám cửa bao quanh với chín cung (6). Trực Phù là chín cung phùng Giáp (6). Trực sử truyền theo tám cửa cùng (7).
8/ Môn có Phù trên là Trực sử (8). Mười giờ một đổi là bằng cứ. Trực phù lần bước theo can giờ (9). Trực sử ngược xuôi theo độn khứ (10).
9/ Đều trong sáu Giáp gọi là Nghi (11). Ất Bính Đinh kia là ba Kỳ (12). Dương độn Nghi xuôi Kỳ chuyển ngược. Kỳ xuôi Nghi ngược Độn âm ghi.
10/ Cửa cát may sao hợp với Kỳ (13). Làm gì cũng tốt chẳng còn nghi. Còn hợp theo bên nên xét nét. Các cung không được vết đen gì.
11/ Tam Kỳ đắc sử này là khó (14). Ví mà gặp được may chẳng nhỏ. Ất chăn Chó Ngựa. Bính: Chuột, Hầu. Long Hổ người tiên Đinh cưỡi cổ.
12/ Còn có ba Kỳ chồng sáu Nghi (15). Gọi là nàng Ngọc giữ môn phi (cánh cửa). Những việc âm tư hòa hợp đó. Khuyên ghi tìm đến để mà suy.
13/ Trời có ba Môn. Đất bốn Hộ (16). Hỏi ai phép ấy là đâu đó. Thái xung, Tiểu cát với Tòng Khôi. Đó gọi Thiên môn nên xuất lộ. Địa hộ Trừ, Nguy, Định với Khai. Mọi việc theo đây thì chẳng khó.
14/ Thái Âm, Lục Hợp, Thái thường kia. Là Địa tư môn phép đã chia (17). Được cả Kỳ Môn mà chiếu đến. Ra ngoài muôn việc ý lòng ưa.
15/ Thiên xung Thiên Mã đều là quý. Đột nhiên gặp nạn phải trốn tránh. Ruổi rong Thiên Mã khắp nơi nơi. Gươm giáo như rừng đâu có sợ.
16/ Ba là sinh khí năm là tử. Thắng ở tam thì suy ở ngũ. Biết được vào tam tránh ngũ kia. Huyền diệu cơ trời nên nhớ giữ.
17/ Phục ngâm xét thấy thật là hung (18). Là lúc trời Bồng đất cũng Bồng. Bồng úp trên Ương hung chẳng kém. Phản ngâm tráo trở việc coi chừng. Tám Môn phản phục đều như thế. Sinh đến trên Sinh, Tử đến Tử. Ví được Kỳ Môn đến chiếu cho. Cũng không may mắn trong muôn sự.
18/ Lục Nghi kích hình thật rất hung (19). Giáp Tý Trực phù buồn tới Đông. Tuất gờm trên Mùi, Thân gờm Hổ. Dần Tị. Thìn Thìn. Ngọ Ngọ trông.
19/ Ba Kỳ vào Mộ phải nên suy. Ngày Giáp vào Khôn buồn những khi. Bính Kỳ thuộc Hỏa, Hỏa mộ Tuất. Thời này mọi việc có hay gì. Cũng hiềm Kỳ Ất vào cung 6 (kiền). Kỳ Đinh vào tám (cấn) cũng cùng thì.
20/ Còn có can giờ vào Mộ cung (20). Những khi mở khóa kỵ tương phùng. Ất Mùi, Nhâm Thìn và Bính Tuất. Cùng là Tân Sửu cũng cùng hung.
21/ Ngũ bất ngộ Thời Rồng u ám (21). Là cách trời trăng đà mất sáng. Can giờ đi đến khắc Can ngày. Như ngày Giáp bị giờ Canh trảm.
22/ Kỳ với Môn, Âm hội một cung. Cả ba khó gặp hội nhau cùng. Được hai hội cũng cho là tốt. Mọi việc làm gì cũng phải xong. Lại được Trực Phù Trực Sử gặp. Làm tướng giờ này là quý nhất. Từ đó xông lên kích đối xung. Đánh trăm trận được trăm đều thật.
23/ Thiên Ất giờ này ở tại cung (22). Làm tướng từ đây khởi tấn công. Ví thử Trực phù trên Ly vị. Thiên Ương nơi tọa đánh sang Bồng.
24/ Giáp Ất Bính Đinh Mậu thuộc Dương. Tại trời thần ngự báo muôn phương. Ra quân dựa vị Kỳ trời đó. Suy đến năm Âm ngược lại đường (23).
25/ Ví Tam Kỳ thấy gặp năm (5 giờ dương) Dương. Đổi ngôi làm khách mới cao cường. Ví gặp năm Âm thì trái lại. Yên ngôi làm chủ phải nên tường.
26/ Trước Phù Lục Hợp cách ba ngôi. Sao Thái Âm kia cách có hai. Tìm thấy Cửu thiên sau một vị. Sau hai Cửu địa tự an bài.
27/ Cửu thiên phương ấy lợi dương binh. Cửu địa bên này lợi đóng doanh. Thái Âm phương ấy nơi mai phục. Tìm phương Lục Hợp trốn yên lành.
28/ Thiên Địa Nhân chia ba khóa độn. Thiên độn tinh nguyệt, Hoa cái đến. Địa độn tinh trời dưới Tử Vi. Nhân độn cho hay Thái Âm chọn.
29/ Sáu Bính trên Đinh Sinh trấn đóng (24). Đó là Thiên độn trời lồng lộng. Khai môn Ất ngự Kỷ là cung. Địa độn nơi đây nên chớ động.
30/ Hưu Môn Kỳ Đinh với Thái Âm. Đây là Nhân độn nên coi trọng. Biết chăng ba độn gặp làm chi. Giấu giấu tiềm tàng khi phải dùng.
31/ Canh là Thái Bạch. Bính: Huỳnh Hoặc. Canh Bính trên nhau ai hội được. Sáu Canh trên Bính Bạch vào Huỳnh. Sáu Bính trên Canh Huỳnh Nhập Bạch. Bạch nhập Huỳnh là giặc đến kia. Huỳnh nhập Bạch là giặc đi sạch.
32/ Bính là Bột mà Canh là cách. Gặp cách không thông. Bột loạn nghịch. Bính trên Thiên Ất. Phục Bột đây. Thiên Ất trên Bính: Phi Bột kích. Canh trên Nhật can là Phục can. Nhật can trên Canh: Phi can cách. Trên cung một là chiến giữa đồng. Cùng một cung là chiến khắp nước.
33/ Canh trên Trực phù , Ất Phục đây. Trực phù trên Canh thiên Ất bay (Thiên Ất phi cung). Canh trên sáu Quý là cách Đại. Trên Kỷ là Hình cách chẳng may. Trên Nhâm giờ ấy là cách Tiểu. Hiềm trên năm tháng với giờ ngày.
34/ Kỳ cách là bàn cách xấu này. Canh trên kỳ ấy khốn nào tầy. Gặp giờ ấy về đưa quân chảy. Mảnh giáp không còn một mảy may.
35/ Sáu Quý trên Đinh: Xà yêu kiều. Sáu Đinh trên Quý: Tước đầu giang. Sáu Ất trên Tân: Long đào tẩu. Sáu Tân trên Ất : Hổ xướng cuồng. Biết chăng bốn cách ấy là hung. Trăm việc gặp đây đừng cất nhắc.
36/ Bính trên Giáp là Điểu điệt huyệt. Giáp trên Bính là Long phản thủ. Chỉ hai cách ấy là cát thần. Việc làm như ý mười phần được tám chín.
37/ Tám Môn ví gặp Khai, Hưu, Sinh. Mọi việc còn chi chẳng xứng tình. Cửa Thương săn đuổi nơi thành việc. Cửa Đỗ cầu che với ẩn mình. Cửa Cảnh dâng thơ cùng phá trận. Cửa Kinh bắt, kiện có thanh danh. Còn như cửa Tử nên chi nhỉ? Tang viếng, chôn cất với giết hình.
38/ Bồng, Nhậm, Xung, Phụ, Cầm: sao dương. Sao âm: Tâm, Trụ, Nhuế cùng Ương. Phụ, Cầm, Tâm ba sao thượng cát. Xung, Nhậm: tiểu cát, tốt thường thường. Rất hung: Bồng, Nhuế không nên dụng. Hung vừa: Ương, Trụ, cũng đừng vương. Hung vừa vô khí lại thành cát. Rất hung vô khí cũng bình thường. Sao cát cần nên phùng vượng tướng. Mọi việc đều nên công tất thành. Ví như Hưu Tù và Phế, Một. Khuyên ai chớ có tiến lên đường.
39/ Cần biết chín tinh phối ngũ hành. Phải cần tám quái khảo Hy kinh. Khảm – Bồng là Thủy. Ly – Ương: Hỏa. Cung giữa, Cấn, Khôn thuộc Thổ doanh. Kiền Đoài thuộc Kim. Chấn Tốn: Mộc. Vượng tướng hưu tù xét trọng khinh.
40/ Sóng bước cùng ta tức hạng ta. Ta sinh là Vượng tháng ngày qua. Phế là Phụ mẫu. Hưu Tài đó. Tù: quỷ quan đây chính liệu mà. Ví như sao Thủy gọi Thiên Bồng. Tướng ở sơ Đông với trọng Đông. Vượng ở giêng, hai. Hưu ở: tư năm. Ngoài ra phỏng thế luận cho cùng.
41/ Việc gấp dùng thần, hoãn kiếm Môn. Ba, năm tráo trở đạo trời còn. Mười Can trên Phù mà thác lạc. Nhập mộ hưu tù các việc đều nguy. Đẩu tinh lâm Sử là quý tinh. Khởi từ Thiên Ất dụng cho minh. Thiên Mục là khách. Địa nhĩ là chủ. Sáu Giáp suy hợp không sai tình. Khuyên ai đừng lãng máy huyền cơ. Thấu suốt chín tinh phò nghiệp vua.
42/ Cung khắc lên Môn không gọi bách (ép). Môn khắc cung là Bách chẳng ngờ. Vó trời bốn bức thoát làm sao. Một hai bức thấp có đường đào (trốn). Ba đến bốn cung Khôn trở lại. Tám chín trượng cao, ngó trước sau.
43/ Tiết khí xoay vần phân định thời. Âm Dương xuôi ngược cần thông coi. Ba nguyên số tích thành sáu Kỷ. Trời đất chưa thành lý đã soi. Diệu quyết ca này nên nhớ kỹ. Chỉ truyền người xứng đáng mà thôi.

LỜI NGƯỜI DỊCH
Bài ca “ Yên Ba điếu tấu” này thâu tóm gần hết bộ Kỳ Môn Độn Giáp. Tôi nhận thấy thật là một bài quan trọng nên phiên âm và phiên dịch luôn. Dưới đây xin dẫn giải thêm những uẩn khúc khó mà tôi hiểu được.
(1) Hai chí tức Đông chí và Hạ chí.
9 cung dàn theo Lạc thư như sau:
4 9 2
3 5 7
8 1 6
9 cung này các số ngang, dọc, chéo đều cộng thành 15.
Ngang Dọc Chéo
4 + 9 + 2 = 15 4 + 3 + 8 = 15 4 + 5 + 6 = 15
3 + 5 + 7 = 15 9 + 5 + 1 = 15 2 + 5 + 8 = 15
8 + 1 + 6 = 15 2 + 7 + 6 = 15
(2) Tám quái dàn như sau:
Tốn Ly Khôn
Chấn Đoài
Cấn Khảm Kiền
(3) Trung bình mỗi năm có 12 tháng. Mỗi tháng gồm 2 khí. Mỗi khí 15 ngày. Mỗi khí chia ra 3 Nguyên là Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên. Mỗi nguyên 5 ngày. Mỗi khí là một hơi thở của vũ trụ.
(4) Độn dương bày xuôi trải qua các cung 1-2-3-4-5-6-7-8-9. Độn âm bày ngược các cung 9-8-7-6-5-4-3-2-1. Từ Đông chí đến hết Mang chủng mặt trời đi hướng lên, thuộc phần Dương, tính độn Dương. Từ Hạ Chí đến hết Đại Tuyết, vành Hoàng Đạo chênh hướng xuống, thuộc phần Âm, tính độn Âm.
(5) Chín sao, chín cung và tám môn hợp nhau như sau:
Sao Thiên Bồng ở cung 1 thuộc cửa Hưu
- Thiên Nhuế - 2 - Tử
- Thiên Xung - 3 - Thương
- Thiên Phụ - 4 - Đỗ
- Thiên Cầm - 5 gởi ở cửa Tử
- Thiên Tâm - 6 thuộc của Khai
- Thiên Trụ - 7 - Kinh
- Thiên Nhậm - 8 - Sinh
- Thiên Ương - 9 - Cảnh
(6) Tinh gặp Giáp là Trực phù. Như độn dương cục 1, ngày Giáp, giờ Bính Dần thì Thiên Bồng Lục Mậu Giáp tý là Trực Phù. Bính Dần thuộc con nhà Giáp Tý.
(7) Môn mà gặp Giáp là Trực Sử. Như khóa trên thì cửa Hưu là Trực sử vì Mậu Giáp Tý ở cung 1 của Hưu.
(8) Trực phù địa ở đâu thì Môn nơi ấy là Trực sử. Như khóa trên, Trực Phù ở đất Khảm thì Hưu môn là Trực sử.
(9) Trực phù bay theo can giờ. Như khóa ở trên, can giờ là Bính. Trực Phù là Mậu, vậy đưa Mậu bay trên Bính.
(10) Trực Sử, Dương độn bay xuôi, Âm độn bay ngược. Như khóa ở trên thuộc Dương. Hưu môn Trực Sử giờ Tý ở cung 1; giờ Sửu cung 2; giờ Dần cung 3. Vậy Trực Sử ở cung 3 là Chấn.
(11) Đầu trong 6 Giáp gọi là 6 Nghi:
Lục Mậu Giáp Tý . Lục Kỷ Giáp Tuất. Lục Canh Giáp Thân.
Lục Tân Giáp Ngọ. Lục Nhâm Giáp Thìn. Lục Quý Giáp Dần.
(12) Trên một khóa Giáp, giải đủ 6 Nghi rồi thì giải đến 3 Kỳ là Ất, Bính, Đinh. Thế là 10 can trời dùng 9 còn can Giáp thì ẩn trong 6 Nghi, không lộ. (Vì quỹ đạo hình xoắn ốc, chia chín cung, từ Giáp chạy đến Nhâm là hết chín số, đến Quý thì hết một vòng và trùng với điểm Giáp ban đầu. Và đến điểm giáp tiếp theo thì đã bước sang một chu kỳ mới)
(13) Cửa cát có 3 là Khai, Hưu, Sinh.
(14) Tam Kỳ đắc Sử là Ất gặp Tuất Ngọ, Bính gặp Tý Thân, Đinh gặp Dần Thìn. Còn có:
Ngày Giáp Kỷ gặp Ất. Ngày Ất Canh gặp Đinh.
Ngày Bính Tân Gặp Bính. Ngày Đinh Nhâm gặp Ất.
Ngày Mậu Quý gặp Đinh.
(15) Tam Kỳ du Lục Nghi là cách Ngọc Nữ thủ môn ( Người Ngọc tựa cửa) và là:
Giáp Kỷ gặp Bính. Ất Canh gặp Tân. Bính Tân gặp Ất
Đinh Nhâm gặp Kỷ. Mậu Quý gặp Nhâm
(16) Thiên tam môn là: Thái xung tức Mão, Tiểu cát tức Vị (Mùi), Tòng Khôi tức Dậu.
Địa tứ hộ là Trừ, Nguy, Định, Khai trong vòng 12 nguyệt kiến.
Trõ, §Þnh, Khai, Nguy : Êy lµ c¸c trùc thø 2,5,8,11. C¸ch tÝnh nh­ sau : th¸ng Giªng khëi tÝnh trùc KiÕn t¹i DÇn, th¸ng 2 khëi KiÕn t¹i M•o, th¸ng 3 t¹i Th×n, th¸ng 4 t¹i Tþ, th¸ng 5 t¹i Ngä...§• biÕt khëi trùc KiÕn t¹i ®©u råi th× cø tÝnh thuËn tíi mçi cung mét Trùc theo thø tù 12 trùc nh­ sau : KiÕn, Trõ, M•n, B×nh, §Þnh, ChÊp, Ph¸, Nguy, Thµnh, Th©u, Khai, BÕ. ThÝ dô : th¸ng 2 chiªm quÎ th× khëi KiÕn t¹i M•o vµ tÝnh thuËn tíi th× Trõ t¹i Th×n...§Þnh t¹i Mïi....Nguy t¹i TuÊt....Khai t¹i Söu.
1. 建 Kiến: Nói chung là tốt, nhưng không có lợi cho việc xây cất, động thổ.
2. 除 Trừ: Ngày này phù hợp cho những việc mang tính “trừ” bỏ cái cũ. Các việc khác
không tốt.
3. 滿 Mãn: Chỉ phù hợp với việc cúng tế, cầu xin các lực lượng siêu nhiên.
4. 平Bình: Vạn sự tiến hành trong ngày này đều tốt.
5. 定 Định: Nên mở tiệc tùng, hội họp, thảo luận hay bàn bạc. Không nên làm nhũng việc như mổ xẻ, khởi kiện, cử người chỉ huy làm một việc gì đó.
6. 執Chấp: Nên tu tạo, sửa chữa, trồng trọt, săn bắn. Không nên làm các việc như chuyển nhà, đi chơi, mở cửa hàng buôn bán, xuất tiền của.
7. 破 Phá: Mọi việc đều bất lợi. Duy chỉ có những việc mang tính “phá” như việc tháo dỡ nhà cửa là tiến hành được.
8. 危 Nguy: Mọi việc đều xấu.
9. 成 Thành: Nên khai trương kinh doanh, nhập học, kết hôn, nhậm chức, nhập trạch vào nhà mới. Không nên kiện tụng.
10. 收Thu: Hợp với những việc có tính chất “thu” như dựng kho tàng, cất giữ của cải, săn bắn, thu hoạch hoa màu, ngũ cốc… nhưng không nên tiến hành các công việc mới như khai trương, không nên đi du lịch. Kỵ tang lễ.
11. 開 Khai: Lợi cho việc mang tính “mở”, như kết hôn, bắt đầu (khai trương) kinh doanh hay khởi công, khánh thành một công việc nào đó. Không nên làm các công việc như đào đất, chôn cất người mất, săn bắn, đẵn gỗ, và những công việc không sạch sẽ.
12. 閉 Bế: Nói chung là không thuận lợi cho mọi việc. Ngoại trừ các việc có tính chất “đóng” như đắp đê, xây vá tường, ngăn cản một sự việc nào đó.
Có bài vè rằng:
Kiến, Phá : Gia trưởng bệnh
Trừ, Nguy : Phụ Mẫu vong.
Mãn, Thành : Đa phú quý
Chấp Bế : Tổn Ngưu Dương
Bình Định : Hưng nhân-khẩu
Thu Khai : Vô họa ương.
(17) Địa tư môn là Thái Âm, Lục Hợp, Thái thường. Địa tư môn mà gặp được 3 cửa cát và 3 Kỳ thì hay lắm.
(18) Phục Ngâm, Phản Ngâm chia 2 loại: Sao gặp Phản, Phục Ngâm và cung gặp Phản, Phục Ngâm: 2 loại cùng xấu như nhau.
(19) Lục Nghi kích hình là:
Mậu Giáp Tý trên Chấn 3 Kỷ Giáp Tuất trên Khôn 2
Canh Giáp Thân trên Cấn 8 Tân Giáp Ngọ trên Ly 9
Nhâm Giáp Thìn trên Tốn 4 Quý Giáp Dần trên Tốn 4
(20) Thời can nhập mộ là:
Bính mộ ở Kiền Tuất Nhâm mộ ở Tốn Thìn
Tân mộ ở Cấn Sửu Ất mộ ở Khôn Vị
Mậu mộ ở Kiền Tuất.
(21) Giờ ngũ bất ngộ là can giờ khắc can ngày. Như ngày Giáp gặp giờ Canh. Giờ này gọi là Nhật Nguyệt tổn quang minh (Trời trăng mất sáng).
(22) Thiên Ất ở đây là thiên thượng Trực Phù, cũng tức là Can giờ trên Thiên bàn.
(23) Những giờ dương (Giáp Ất Bính Đinh Mậu) nên tựa các sao cát (ở đây nói về Tinh) trên nền trời, tại sao vậy, vì giờ Dương thì khí trời làm chủ nên phải lấy Tinh thuộc về Thiên bàn. Những giờ âm (Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) nên tựa các sao cát (ở đây nói về cung địa bàn) trên vành đất mà đánh sang cung đối xung (Giờ Âm thì khí Đất làm chủ nên lấy cung địa bàn mà xem).
(24) Thiên độn là cách Sáu Bính gặp cửa Sinh và trên Đinh.
Địa độn là cách Sáu Ất Gặp cửa Khai và trên Kỷ.
Nhân độn là cách Sáu Đinh gặp cửa Hưu và Thái Âm.
(25) Các sao trong Độn Giáp gặp thời cùng hành, là được Tướng khí. Gặp thời được sao sinh là được vượng khí. Gặp thời mà sao khắc là Hưu khí. Gặp thời mà sinh sao là Phế khí. Gặp thời khắc sao là Tử khí. Như Thiên Bồng thuộc Thủy thì Tướng ở Đông, Vượng ở Xuân, Hưu ở Hạ, Phế ở Thu, Tù ở 4 tháng Quý (hay chính xác hơn là 18 ngày cuối cùng của mỗi Quý).
Đoạn đầu của bài ca này có nói về gốc gác của khoa Độn giáp này như sau: vua Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu ở Trác Lộc. Thua mãi. Sau cầu trời được bà Cửu Thiên Huyền nữ trao truyền thuật tính Độn Giáp. Rồi trên sông Lạc có Rồng thiêng đội Hà Đồ nhô lên, trên mây xanh có Phượng Hoàng ngậm Lạc thư bay xuống. Hoàng Đế liền sai Phong Hậu ghi chép lại thành khoa học Độn Giáp này.
Thật ra thì không làm gì có chuyện bà Cửu Thiên Huyền nữ (bà Chín trời cao thẳm- huyền đây là cao sâu, không phải là đen như nhiều người nghĩ) xuống dạy Độn Giáp, cũng không có chuyện Rồng thiêng Phượng lạ. Vẽ ra như thế cho đẹp mắt giống nòi mà thôi.
Theo tôi hiểu thì như sau: Hoàng đế là thủ lĩnh nòi Hán, Suy Vưu là thủ lĩnh nòi Việt. Hán Việt đánh nhau ở đất Trác Lộc. Hán thua mãi. Sau nhờ sức gián điệp mà Hán cắp được công thức Hà Đồ Lạc Thư của Việt. Luyện tập mãi mà sau Hoàng Đế thắng được Suy Vưu. Hà Đồ Lạc Thư vốn là chìa khóa của Dịch số. Dịch số có gốc gác từ đạo Tiên, là đạo gốc của nòi Việt. Đạo Tiên tu luyện theo dịch số. Dịch số là văn minh của nòi Việt chứ không phải có từ nòi Hán như mọi người tưởng nghĩ. Các vị tiên nổi tiếng của nòi Việt như Tản Viên sơn thánh, Sử Đồng tử. Phù Đổng thiên vương, Phạm Viên…Các vua Hùng thời Hồng Bàng đều tu đạo tiên, luyện được thuốc trường sinh, vua nào cũng trị vì trên dưới 200 năm cả./.

KỲ MÔN TỔNG QUYẾT CA
1/ Âm Dương thuận nghịch diệu nan cùng. Nhị chí hoàn hương nhất cửu cung. Nhược năng liễu đạt âm dương lý. Thiên địa đồ lai nhất chưởng trung.
2/ Tam tài biến hóa tác tam nguyên. Bát quái phân vi bát độn môn. Tinh phù mỗi trục thập can chuyển. Trực sử dương tong Thiên Ất bôn.
3/ Lục Nghi Lục Giáp bản đồng doanh. Tam kỳ tức thị Ất Bính Đinh,. Tam kỳ nhược hợp Khai, Hưu, Sinh. Tiên thị cát môn lợi xuất hành. Vạn sự tòng chi vô bất lợi. Năng tri huyền diệu đắc kỳ tinh.
4/ Trực phù tiền tam Lục Hợp vị. Tiền nhị Thái Ất tự thiết ký. Trực phù hậu nhất vi Cửu Thiên. Hậu nhị chi cung vi Cửu Địa. Đại khả phục nặc, thiên dương binh. Lục Hợp, Thái Âm khả tàng tị.
5/ Cấp tòng thần hề hoãn tòng môn. Tam ngũ phản phục thiên đạo lợi. Dĩ thượng tuy đắc tam kỳ diệu. Bất như cánh đắc Tam kỳ Sứ.
6/ Đắc Sứ do lai vị vi tinh. Ngũ bất ngộ thời tổn quang minh. Dụng sự tu ưu thời khắc nhật. Phản, Phục ngâm cách do bất cát. Yểm tập đào vong tu cách thời. Chiêm kể hành nhân tín khỏi thất.
7/ Đẩu Giáp tam kỳ du Lục Nghi. Thiên Ất hội hợp chủ âm tư. Thảo bộ tu dụng thời hạ khắc. Hành nhân tin túc ngộ Tam kỳ.
8/ Tam kỳ thượng kiến du Lục Nghi. Lục Nghi cánh kiến ngũ dương thì. Kiền hướng Bát môn tam cát vị. Vạn sự khai tam vạn sự nghi.
9/ Ngũ dương tại tiền, ngũ âm hậu. Chủ khách tu tri hữu thịnh suy. Âm hậu ngũ can quân tu trí. Lục Nghi gia trước cánh vô lợi. Lục Nghi hốt nhiên gia tam cung. Tiên nghi kích hình tiên tu ký.
10/ Lục Nghi kích hình, Tam kỳ mộ. Thủ thời cử động khả đạn cụ. Thái Bạch ngập Huỳnh tặc tức lai. Huỳnh nhập Thái Bạch tặc tức khứ.
11/ Bính vi Bột hề, Canh vi cách. Cách tắc bất thông Bột loạn nghịch. Canh gia phục can vi phục can. Nhật gia canh phi can cách.
12/ Canh gia trực phù Thiên Ất Phục. Trực phù gia Canh Thiên Ất phi. Gia Kỷ vi Hình độn thượng cách. Gia Quý lộ trung kiến Đại cách. Gia Nhâm chi thời vi tiểu cách. Hựu hiềm Niên Nguyệt Nhật thời phùng. Đương thử chi thời tối bất cát. Cử động hành sự giai bất nghi.
13/ Bính gia giáp hề Điểu điệt huyệt. Giáp gia Bính hề Long phản thủ. Tân gia Ất hề Hổ xương cuồng. Ất gia tân hề Long đào tẩu. Đinh gia Quý hề Tước đầu giang. Quý gia Đinh hề xà yêu kiều. Phù gia Lục Đinh vi Tướng vị. Thời gia Lục Đinh vi Thủ tinh. Bính Hợp Mậu khai vi Thiên Độn. Địa độn Ất, Hợp nhập Khai cung. Hưu thừa Đinh, Đinh, Ất, Thái Âm: Nhân Thiên cương tứ trương thời gia Quý.
14/ Bồng gia Ương, thượng vi Phản ngâm. Phục ngâm chi thời Bồng gia Bồng. Cát tú phùng cái sự bất cát. Hung tú phùng chi sự dữ hung. Thiên phụ, Xung, Nhậm, Cầm, Tâm: cát. Thiên Bồng, Thiên Nhuế, Ương, Trụ: hung. Âm tú: Thiên Tâm, Ương, Trụ, Nhuế. Dương tinh: Xung, Phụ, Cầm, Nhậm, Bồng.
15/ Thiên cương tứ trương vô tẩu lộ. Âm Dương thuận nghịch diệu vô cùng. Tiết khí suy vi thời hậu định. Nhị chí hoàn hương nhất cửu cung. Tam nguyên siêu tiếp du Lục Nghi. Bát quái thu lưu biến cửu cung. Nhược năng liễu đạt âm dương lý. Thiên địa đồ lai nhất chưởng trung.
Dịch nghĩa

1/ Âm Dương xuôi ngược diệu khôn cùng. Hai Chí xoay dần trải 9 cung. Nếu hiểu âm dương cùng lý lẽ. Thu cả đất trời trong bàn tay.
2/ Tam tài biến hóa dựng 3 Nguyên. Tám quẻ chia ra tám Độn truyền. Tinh Phù đều dõi mười can chuyển. Trực sử theo vào Thiên Ất môn.
3/ Sáu nghi sáu Giáp cũng cùng danh. Ba kỳ tức gọi Ất, Bính, Đinh. Ất, Bính, Đinh hợp Khai, Hưu, Sinh. Ra đi nhờ cửa cát may lành. Theo đây muôn việc đều hay cả. Biết phép diệu huyền, biết được linh.
4/ Trước Phù, Lục Hợp cách ba ngôi. Sao Thái Âm kia cách có hai. Tìm Cửu Thiên thì sau một vị. Sau hai, Cửu Địa đã an bài. Thiên dương binh lục, địa tàng phục. Âm, Hợp là nơi ẩn nép tài.
5/ Khi cần gấp dùng thần, không gấp thì dùng môn. Ba, Năm phản phục đạo trời còn. Cách trên ví gặp Ba Kỳ tới. Cũng chẳng bằng Kỳ Sử có hơn.
6/ Đắc sử tuy vậy vẫn chưa tinh. Ngũ bất ngộ thời cũng bớt minh. Dùng việc không nên giờ khắc Nhật. Phản, Phục ngâm kia cũng không cát. Giấu che trốn lánh dùng cách giờ. Xem người ta vắng tin đã mất.
7/ Khóa thấy Tam Kỳ du Lục Nghi. Hội cùng Thiên Ất chủ âu tư. Đánh, bắt nên dùng thời dưới khắc. Người đi muốn biết hỏi Tam Kỳ.
8/ Tam kỳ trên thấy tượng du Nghi. Giờ lại năm dương hẳn ít khi. Thêm tám Môn đều sa đất cát. Muôn công ngàn việc ít đâu bì.
9/ Năm Dương đứng trước, năm Âm sau. Chủ khách chia ngôi có mạnh sầu. Gặp dùng năm can âm phải liệu. Sáu Nghi bước phải lợi gì đâu. Sáu Nghi chợt tới ba cung ấy. Là kích hình ấy nhớ thuộc làu.
10/ Sáu Nghi kích hình Tam kỳ mộ, gặp những giờ này thêm hoảng sợ. Thái Bạch nhập Huỳnh giặc đến kia. Huỳnh vào Thái bạch giặc lui đó.
11/ Bính là Bột mà Canh là cách. Gặp cách không thông, Bột loạn nghịch. Canh úp Can ngày là Phục can. Can ngày trên Canh Phi can cách.
12/ Canh trên Trực phù Thiên Ất phục. Trực phù trên Canh Thiên Ất phi. Canh trên Sáu Kỷ là Hình cách. Cách đại là Canh trên Quý ghi. Trên Nhâm là Cách tiểu còn đó. Năm tháng ngày giờ gặp cũng nguy. Gặp những giờ trên thì thật xấu. Cất quân khởi việc chẳng ra gì.
13/ Bính trên Giáp là Điểu điệt huyệt. Giáp trên Bính là Long phản thủ. Tân trên Ất là Hổ xương cuồng. Ất trên Tân là Long đào tẩu. Đinh trên Quý là Tước đầu giang. Quý trên Đinh là Xà yêu kiều. Phù trên Sáu Đinh là Tướng Vị. Thời trên Sáu Đinh là Thủ tinh. Bính Hợp Mậu Khai là Thiên độn. Ất, Hợp ngộ Khai là Địa độn bầy. Hưu, Âm, Đinh, Ất: Nhân độn đó. Thiên cương Tứ trương giờ trên Quý.
14/ Bồng trên Ương gọi khóa Phản ngâm. Bồng trên Bồng gọi phục ngâm. Sao cát gặp đấy sự chẳng cát. Sao hung mà gặp việc, việc hung thêm. Thiên phụ, Xung, Nhậm, Cầm, Tâm: tốt. Nhuế, Bồng, Ương, Trụ tới là hung. Sao âm: Ương, Trụ, Nhuế Tâm đó. Sao dương: Xung, Phụ, Cầm, Nhậm, Bồng.
15/ Lưới trời bốn bức không đường thoát. Âm Dương xuôi ngược diệu nan cùng. Tiết khí rồi lần thời hậu định. Hai Chí xoay vần một chín cung. Ba Nguyên vượt nối trên Nghi nối. Tám quẻ xoay quanh khắp chín cung. Ví rằng hiểu được âm dương lý. Bàn tay thu cả đất trời trong.
Lệ khởi 9 cục độn dương

Đông Chí, Kinh Trập: 1-7-4 Tiểu Hàn: 2-8-5
Xuân Phân, Đại Hàn: 3-9-6 Lập Xuân: 8-5-2
Cốc Vũ, Tiểu Mãn: 5-2-8 Vũ Thủy: 9-6-3
Thanh Minh, Lập Hạ: 4-1-7 Mang Chủng: 6-3-9

Lệ khởi 9 cục độn âm

Hạ Chí, Bạch Lộ : 9-3-6 Tiểu Thử : 8-2-5
Đại thử, Thu Phân : 7-1-4 Lập Thu : 2-5-8
Hàn Lộ, Lập Đông : 6-9-3 Xử Thử : 1-4-7
Sương Giáng, Tiểu Tuyết : 5-8-2 Đại Tuyết : 4-7-1
Lời người dịch:
Những số trên đây là số khởi cục của từng tiết. Số thứ nhất thuộc nguyên trên, số thứ hai thuộc nguyên giữa, số thứ ba thuộc nguyên dưới. Như xem Khóa vào khí Đông chí thì thượng nguyên khởi cục 1, trung nguyên khởi cục 7, hạ nguyên khởi cục 4. nhìn vào bảng trên đây mà nhớ được cũng là việc rất khó.. sau đây xin trình bày một bảng tự vạch lấy, có thể dùng để suy ra được tiết khí nào thuộc cục nào:
Nhớ rằng 24 tiết khí giải ra trong một vòng trời khởi từ cung Khảm 1, đến Cấn 8, Chấn 3, Tốn 4, Ly 9, Khôn 2, Đoài 7, Kiền 6 là hết 1 vòng.
- Cung Khảm 1 có 3 khí là: Đông chí, Tiểu Hàn, Đại Hàn thì:
Nguyên trên 1 - 2 - 3
- dưới 4 - 5 - 6
- giữa 7 - 8 - 9
Cung Cấn 8 có 3 khí là: Lập Xuân, Vũ thũy, Kinh trập thì:
Nguyên trên 8 - 9 - 1
- dưới 2 - 3 - 4
- giữa 5 - 6 - 7
Cung Chấn 3 có 3 khí là:
Nguyên trên 3 - 4 - 5
- dưới 6 - 7 - 8
- giữa 9 - 1 - 2
Cung Tốn 4 có 3 khí là: Lập Hạ, Tiểu Mãn, Mang Chủng thì:
Nguyên trên 4 - 5 - 6
- dưới 7 - 8 - 9
- giữa 1 - 2 – 3
Cung Ly 9 có 3 khí là: Hạ Chí, Tiểu Thử, Đại thử thì:
Nguyên trên 9 - 8 - 7
- dưới 6 - 5 - 4
- giữa 3 - 2 - 1
Cung Khôn 2 có 3 khí là: Lập thu, Sử Thử, Bạch Lộ thì:
Nguyên trên 2 - 1 - 9
- dưới 8 - 7 - 6
- giữa 5 - 3 - 4
Cung Đoài 7 có 3 khí là: Thu Phân, Hàn Lộ, Sương Giáng thì:
Nguyên trên 7 - 6 - 5
- dưới 4 - 3 - 2
- giữa 1 - 9 - 8
Cung Kiền 6 có 3 khí là: lập Đông. Tiểu Tuyết, Đại Tuyết thì:
Nguyên trên 6 - 5 - 4
- dưới 3 - 2 - 1
- giữa 9 - 8 - 7
Bảng bầy như trên đây, có nghĩa là mỗi nhóm 3 Khí, mỗi nguyên cũng có 3 số, thì số thứ nhất thuộc Khí thứ nhất; số thứ hai thuộc khí thứ 2; số thứ 3 thuộc khí thử. Như nhóm thứ nhất 3 khí là Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn thì khí Đông chí nguyên trên khởi cục 1, nguyên giữa khởi cuc 7, nguyên dưới khởi cục 4. Tiết Tiểu hàn nguyên trên khởi cục 2, nguyên dưới khởi cục 5, nguyên giữa khởi cục 8. Khí Đại hàn nguyên trên khởi cục 3, nguyên dưới khởi cục 6, nguyên giữa khởi cục 8. Nhóm trong cung 3 khởi từ cục 3, nhóm trong cung 4 khởi từ cục 4, nhóm trong cung 9 khởi từ cục 9, nhóm trong cung 2 khởi từ cục 2, nhóm trong cung 7 khởi từ cục 7, nhóm trong cung 6 khởi từ cục 6. Từ nhóm 1 đến nhóm 4 thuộc dương, tính xuôi từ 1, 2, 3…Từ nhóm 9 đến 6 thuộc âm, tính ngược từ 9, 8, 7…

Th Tr Hạ Th Tr Hạ Th Tr Hạ
Hạ chí
Tiểu thử
Đại thử
Lập hạ 4 1 7 9 3 6 2 5 8 Lập thu
Tiểu mãn 5 2 8 8 2 5 1 4 7 Xử thử
Mang chủng 6 3 9 7 1 4 9 3 6 Bạch lộ
Xuân phân 3 9 6 4 9 2 7 1 4 Thu phân
Thanh minh 4 1 7 3 5 7 6 9 3 Hàn lộ
Cốc vũ 5 2 8 8 1 6 5 8 2 Sương giáng
Lập xuân 8 5 2 1 7 4 6 9 3 Lập đông
Vũ thuỷ 9 6 3 2 8 5 5 8 2 Tiểu tuyết
Kinh chập 1 7 4 3 9 6 4 7 1 Đại tuyết
Đông chí
Tiểu hàn
Đại hàn


12 Thần ứng nghiệm

- Thiên Ất trong cửa, Quý nhân xe ngựa. Người đi về mau. Trưởng giả mừng vui.
- Đằng xà trong cửa. Nửa đường quay lại. Quái lạ hoảng kinh, Gió mưa rập rình. Nghe kêu chim khách. Có người đuổi nhanh.
- Chu Tước vào cửa. Xa nghe tiếng trống. Vật sống trên đường. Lưu loát văn chương.
- Lục hợp vào cửa. Người ấm áo đẹp. Đường gặp ngựa xe. Thấy trẻ cười khoe.
- Câu Trận vào cửa. Việc làm ngắc ngứ (chậm trễ, đứt đoạn). Đường gặp đánh nhau. Mưu chẳng đến đâu.
- Thanh Long vào cửa. Đường gặp Quan Sứ. Có triệu vui mừng. Áo gấm tưng bừng.
- Thiên Không vào cửa. Dương thêm Âm bước. Vật hỏng trên đường. Cười nói huyênh hoang.
- Bạch Hổ vào cửa. Cửa quan lo sợ. Thấy chết, nghe bi. Binh cách đường di.
- Thái thường vào cửa. Phường tuồng con hát. Rượu thịt thấy đống. Tranh đẹp thần thông.
- Huyền vũ vào cửa. Không là sư sãi, trộm cắp, rơi lăn. Cũng kẻ xin ăn.
- Thái Âm vào cửa. Âm tư, hòa hợp. Cầu ít được nhiều. Âm nhạc cùng theo.
- Thiên Hậu vào cửa. Đàn bà biếu vật. Trẻ nhỏ cười hung. Gái về nhà chồng.
(Đoạn này nên tham khảo thêm phần 12 tướng của Lục nhâm).
_______________________

Thanh Long phương cát

Nên ngồi ở phương cát, cầu tài, đánh bạc, mưu việc trăm sự đều tốt lành.
Thanh Long
Tuần giáp Tý: Tý Tuần Giáp Tuất : Tuất Tuần Giáp Thân: Thân
Tuần giáp Ngọ: Ngọ Tuần giáp Thìn : Thìn Tuần giáp Dần: Dần

Thiên Mục, tuần:
Giáp Tý : Đinh Mão. Giáp Tuất : Đinh Sửu . Giáp Thân : Đinh Hợi
Giáp Ngọ : Đinh Dậu. Giáp Thìn : Đinh Mùi. Giáp Dần : Đinh Tị

Địa Nhĩ, tuần:
Giáp Tý : Quý Dậu . Giáp Tuất : Quý Mùi. Giáp Thân : Quý Tị
Giáp Ngọ : Quý Mão. Giáp Thìn : Quý Sửu . Giáp Dần : Quý Hợi

Thiên Môn,(là chi thứ 5 trong tuần thủ) tuần:
Giáp Tý : Thìn. Giáp Tuất : Dần. Giáp Thân : Tý
Giáp Ngọ : Tuất. Giáp Thìn : Thân. Giáp Dần : Ngọ

Địa hộ (là chi thứ 6 trong tuần thủ), tuần:
Giáp Tý : Tị. Giáp Tuất : Mão. Giáp Thân : Sửu
Giáp Ngọ : Hợi. Giáp Thìn : Dậu. Giáp Dần : Vị

Hoa Cái (là chi cuối cùng trong tuần thủ), tuần:
Giáp Tý : Phương Dậu. Giáp Tuất : Phương Mùi. Giáp Thân : Phương Tị
Giáp Ngọ : Phương Mão. Giáp Thìn : Phương Sửu. Giáp Dần : Phương Hợi

Bài ca 12 ngày giờ hoàng hắc đạo

Tí Ngọ: kiếm ngôi Thân Trâu Dê (Sửu, Mùi): trên Tuất lăn
Dần Thân: đi kiếm Tý Mão Dậu: hỏi thăm Dần.
Thìn Tuất: xem Rồng (Thìn) giáng. Tị Hợi: Ngựa (Ngọ)bay thân.

1.Thanh long (Rồng xanh) Hoàng đạo.
2.Minh đường (Thần sáng): Hoàng đạo.
3. Thiên hình (trời đậm): Hắc.
4. Chu tước (sẻ non): Hắc.
5.Kim Quỹ (Tráp vàng): Hoàng.
6.Thiên đức (Đức trời): Hoàng.
7. Bạch hổ (hổ trắng): hắc.
8. Ngọc đường (Thềm ngọc): hoàng.
9. Thiên lao (Lao trời): hắc.
10. Huyền vũ (Rùa xám): hắc.
11. Tư mệnh (Quản mạng): hoàng.
12. Câu trận (móc câu): hắc.

Lời người dịch:
Bản nguyên mục này có như trên thì bạn đọc khó có thể học nổi mà tính ra được. Dịch giả sẽ dẫn giải cho dễ hiểu như sau:
Muốn tìm ngày Hoàng đạo hay Hắc đạo thì cứ trong tháng Tý hay tháng Ngọ đặt Thanh long vào ngày Thân (câu đầu bài ca này là Tý Ngọ kiếm ngôi Thân), rồi đặt tiếp Minh đường vào ngày Dậu, Thiên hình vào ngày Tuất, Chu tước vào ngày Hợi, Kim Quỹ vào ngày Tý, Thiên đức ngày Sửu, Bạch hổ ngày Dần, Ngọc đường ngày Mão, Thiên lao ngày Thìn, Huyền vũ ngày Tị, Tư mệnh ngày Ngọ, Câu trận ngày Mùi. Còn về hoàng đạo hay hắc đạo thì dưới bài ca có đề cập đến.
Muốn tìm giờ Hoàng đạo hay hắc đạo thì cứ ngày Tí, Ngọ đặt Thanh long vào giờ Thân và chuyển xuôi dần như trên.
................................................

Màu sắc và 5 hành của 9 cung, 8 quái, 9 sao, 9 thần.

Khảm : Thiên bồng cung 1 : Nước, Bạch.
Khôn : Thiên nhuế cung 2 : đất, đen.
Chấn : Thiên Xung cung 3 : gỗ, biếc.
Tốn : Thiên Phụ cung 4 : gỗ, xanh.
Thiên Cầm cung 5 : đất, vàng.
Kiền : Thiên Tâm cung 6 : Kim, trắng.
Đoài : Thiên Trụ cung 7 : Kim, đỏ.
Cấn : Thiên Nhậm cung 8 : đất, trắng.
Ly : Thiên Ương cung 9 : lửa, tím.

Trực phù: đất. Đằng xà: lửa. Thái âm: Kim. Lục hợp: gỗ. Câu trận: đất. Bạch hổ: Kim. Chu tước: lửa. Huyền vũ: nước. Cửu địa: đất. Cửu thiên: kim.

Sáu nghi, ba kỳ:
Giáp Tí: Mậu. Giáp Ngọ: Tân Nhật kỳ: Ất
Giáp Tuất: Kỷ. Giáp Thìn: Nhâm Nguyệt kỳ: Bính
Giáp Thân: Canh Giáp Dần: Quý Tinh kỳ: Đinh

Tìm tháng Dần

Giáp Kỷ năm nay tháng Bính Dần, Ất Canh năm ấy Mậu theo chân, Bính Tân mở cửa Canh Dần ngự, ví hỏi Nhâm Đinh vẫn tháng Nhâm. Mậu Quý tháng giêng ai đó nhỉ ? Giáp Dần đầu tháng tính lần lần.

Tìm giờ can giờ Tý

Giáp Kỷ hôm nay giờ Giáp Tí
Ất Canh tìm Bính đầu giờ chỉ.
Bính Tân tầm Mậu Tí.
Đinh Nhâm Canh tý cư.
Mậu Quý khởi từ Nhâm

Nạp Giáp, Mộ

- Kiền nạp Giáp, Nhâm. Khôn nạp Ất, Quý. Khảm nạp Mậu, Ly nạp Kỷ. Chấn nạp Canh, Tốn nạp Tân. Cấn nạp Bính, Đoài nạp Đinh.
- Giáp Thân mộ ở Kiền; Mậu mộ ở Khảm.
________________
Dịch mã, Kiếp sát
Ngày Dần, Ngọ, Tuất: Mã ở Thân, Sát ở Hợi.
Ngày Thân, Tý, Thìn : - Dần, - Tị
Ngày Tỵ, Dậu, Sửu : - Hợi, - Dần
Ngày Hợi, Mão, Vị : - Tỵ, - Thân
________________

Tuần không

Giáp Tý tuần này Tuất Hợi không. Gặp tuần Giáp Tuất Thân, Dậu thêm trông.
Giáp Thân: Ngọ, Mùi không hai chốn. Giáp Ngọ tìm không: Thìn Tỵ dòng.
Ví hỏi Giáp Thìn: Dần Mão trống. Giáp Dần: Tý, Sửu khoảng không mong.
________________

Phương Hỷ thần

Giáp Kỷ tìm Cấn; Ất Canh: Kiền. Bính Tân: Khôn hỏi hẳn bằng yên.
Đinh Nhâm Ly tiếng cười ha hả. Mậu Quý Khảm say sưa rượu tốn mèn.
_______________

Lộc ngày

Giáp: Lộc ở Dần. Ất Lộc ở Mão. Bính Mậu Lộc ở Tỵ. Đinh Kỷ Lộc ở Ngọ
Canh: Lộc ở Thân. Tân Lộc ở Dậu. Nhâm Lộc ở Hợi. Quý Lộc ở Tý.
Hợp hóa
Giáp - Kỷ hóa Thổ; Ất - Canh hóa Kim; Bính - Tân hóa Thủy; Đinh - Nhâm hóa Mộc.
Mậu - Qu‎‎‎ý hóa Hỏa; Tý - Sửu hóa Thổ; Dần - Hợi hóa Mộc; Mão - Tuất hóa Kim;
Thìn - Dậu hóa Hỏa; Tỵ - Thân hóa Thủy; Ngọ - Mùi có hợp không hóa.

Phương Quý nhân
Ngày Mậu Canh : Sửu dương QUÝ Mùi âm QUÝ
- Ất : Thân - TÝ -
- Kỷ : Tý - Thân -
- Bính : Dậu - Hợi -
- Đinh : Hợi - Dậu -
- Nhâm : Mão - Tỵ -
- QUÝ : Tỵ - Mão -
- Tân : Dần - Ngọ -
- Giáp : Mùi - Sửu -

12 CHI THẦN TƯỚNG ĐỊA BÀN

TỊ NGỌ MÙI THÂN
Thần : Thái Ất Thần : Thắng quang Thần : Tiểu cát Thần: Truyền Tông
Tướng: Đằng xà Tướng: Chu tước Tướng: Thái thường Tướng: Bạch hổ
THÌN DẬU
Thần : Thiên Cương Thần : Tòng khôi
Tướng: Câu trận Tướng: Thái Âm
MÃO TUẤT
Thần : Thái Xung Thần : Hà khôi
Tướng: Lục Hợp Tướng: Thiên không
DẦN SỬU TÝ HỢI
Thần :Công tào Thần : Đại cát Thần : Thần hậu Thần : Đăng minh
Tướng: Thanh Long Tướng: Thiên Ất Tướng: Thiên Hậu Tướng : Huyền Vũ

Hình đồ độn dương (1) cục – ngày Giáp Kỷ, giờ Giáp Tí

Đỗ/4 Thiên Phụ
Tân / Lục
Lục Hợp
CẢNH/9 Thiên Ương
Ất / Tía
Bạch Hổ TỬ/2 Thiên Nhuế
Kỷ/Đen
Huyền Vũ
THƯƠNG/3 Thiên Xung
Canh / Biếc
Thái Âm GIỮA / 5 Thiên Cầm
Nhâm/Vàng
KINH/7 Thiên Trụ
Đinh/ Đỏ
Cửu Địa
SINH/8 Thiên Nhậm
Bính/Trắng
Đằng xà HƯU/1 Thiên Bồng
Mậu/ Trắng
Trực Phù KHAI/6 Thiên Tâm
Qu‎í/Trắng
Cửu Thiên

Hình đồ độn âm 9 cục – ngày Giáp Kỷ, giờ Giáp T‎í

Đỗ/4 Thiên Phụ
Quí
Đằng xà
CẢNH/9 Thiên Ương
Mậu
Trực phù TỬ/2 Thiên nhuế
Bính
Cửu Thiên
THƯƠNG/3
Thiên Xung
Đinh
Thái Âm GIỮA / 5 Thiên Cầm
Nhâm
KINH/7 Thiên Trụ
Canh
Cửu Địa
SINH/8
Thiên Nhậm
Kỷ
Lục Hợp HƯU/1 Thiên Bồng
Ất
Bạch Hổ KHAI/6 Thiên Tâm
Tân
Huyền Vũ


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 2

Quyết 10 can khắc ứng

1. Sáu Giáp với Sáu Mậu là một (Can giáp ẩn ở 6 mậu).
- Mậu thiên bàn trên Mậu địa bàn gọi là Phục ngâm. Mọi việc đều bế tắc. Giữ tĩnh thì cát.
- Mậu trên Ất gọi là Thanh Long hợp linh ( Rồng xanh hợp thiêng). Được Môn cát thì việc cát, Môn hung thì việc hung.
- Trên Bính gọi là Thanh Long Phản thủ (Rồng xanh ngoái cổ). Mọi việc làm đều rất lợi. Môn gặp Bách, Mộ, Kích, Hình: việc cát thành hung.
- Trên Đinh là Thanh Long diệu minh (Rồng xanh lóe sang, các việc vào cửa Quí, cầu danh đều cát lợi. Nếu gặp Mộ, Bách thì mang tiếng không hay (thị phi).
- Trên Kỷ là Quí nhân nhập ngục (người sang sa ngục) các việc công tư đều không lợi.
- Trên Canh là Trực Phù phi cung (Cung trực Phù bay thì việc cát không được cát, việc hung càng thêm hung.
- Trên Tân là Thanh Long triết túc (Rồng xanh gẫy cẳng). Được Môn cát thì còn có thể mưu làm. Nếu phải Môn hung thì chiêu tai họa, mất tiền tài, mắc tật ở chân.
- Trên Nhâm là Thanh Long nhập Thiên lao (Rồng xanh vào Lao Trời) phàm âm dương đều không cát lợi.
- Trên Quí là Thanh Long Hoa Cái cát cách (Cách cát Rồng xanh che lọng hoa). Được cách cát thì tốt, được phúc, gặp môn hung thì gặp nhiều sai suyễn.
2. Sáu Ất trên Sáu Mậu là lợi âm hại dương. Môn gặp hung bách thì cửa phá người thương.
- Trên Ất là Nhật kỳ phục ngâm, không nên vào người quý, cầu danh, chỉ nên yên phận giữ thường.
- Trên Bính là Kỳ Nghi thuận toại, gặp cát tinh thì thăng quan tiến chức, gặp hung tinh thì vợ chồng ly biệt.
- Trên Đinh là Kỳ Nghi tương tả (giúp đỡ nhau), việc văn thư thì cát. Trăm việc đều làm được.
- Trên Kỷ là Nhật kỳ nhập vụ bị Thổ ám muội (Kỳ Nhật vào sương mù, bị đất làm tối tăm). Gặp Môn hung tất là hung. (được Môn 2 cát là Địa độn).
- Trên Canh là Nhật kỳ bị hình (Kỳ Nhật bị đâm), có kiện cáo nhau tài sản, vợ chồng ý riêng nghi.
- Trên Tân là Thanh Long đào tẩu (Rồng xanh trốn chạy), đầy tớ lừa chủ, sáu giống nuôi bị đau ốm.
- Trên Nhâm là Nhật kỳ nhập địa ( Kỳ Nhật lặn đất), thứ bậc trái loạn, kiện cáo, việc qua, tai tiếng.
- Trên Quý là Hoa cái Bồng tinh cung ( Lọng hoa che cung sao Bồng), giấu tích, tu đạo, ẩn lánh, tàng hình, lánh tai, xa nạn thì tốt.
3. Sáu Bính trên Sáu Mậu gọi là Phi điểu điệt huyệt (chim bay về tổ, mưu làm mọi việc đều chu tất tốt lành.
- Trên Ất là Nhật Nguyệt tinh hành (Nhật Nguyệt sóng nhau đi) việc công việc tư đều cát.
- Trên Bính là Nguyệt kỳ bột soái ( Kỳ nguyệt xoè chổi) thì văn thư bức bách, phá hao, mất mát.
- Trên Đinh là tân Kỳ Chu tước (Kỳ tân sẻ son), người quý thì văn thư cát lợi, người thường thì bình tĩnh (được ba môn cát là Thiên độn…?).
- Trên Kỷ là Thái Bột nhập hình ( Sao chổi bị hình), tu thì bị hình trượng, văn thư không xuôi. Được Môn cát thì cát, Môn hung thì chuyển hung.
- Trên Canh là Huỳnh nhập Thái Bạch (Huỳnh hoặc vào Thái bạch), cửa nhà phá nát, trộm cắp hao tổn.
- Trên Tân là mưu sự tựu thành (cầu việc được thành, người bệnh không hung).
- Trên Nhâm là Hoả nhập Thiên La ( Lửa vào vó trời), là khách không lợi, tai tiếng cũng khá nhiều.
- Trên Quý là Hoa cái bột soái ( Lọng hoa xoè chổi), người âm thì hại, tai hoạ sinh dần.
4. Sáu Đinh trên Sáu Mậu là Thanh Long chuyển quang ( Rồng xanh chuyển sáng), người làm quan thì lên chức, người thường thì may mắn.
- Trên Ất là Nhân độn cách cát. Người quý thì lên quan thêm tước, người thường thì có mừng về hôn nhân, tiền tài.
- Trên Bính là Tinh tùy Nguyệt chuyển ( Sao theo trăng chuyển), người quý thì vượt cấp thăng cao, người thường thì trong vui sinh buồn.
- Trên Đinh là Kỳ nhập Thái Âm ( kỳ vào Thái Âm) thì có văn thư đến, việc mừng vừa lòng.
- Trên Kỷ là Hoả nhập Câu trận (Lửa vào móc câu) thì vì nữ nhân mà sinh gian tư thù oán.
- Trên Canh là cách Niên Nguyệt Nhật thời, thì văn thư trở cách, người đi xa tất về.
- Trên Tân là Chu Tước nhập ngục (Sẻ son vào tù) thì người tội được tha tù, người làm quan mất ngôi.
- Trên Nhâm là Ngũ thần hổ hợp (Năm thần hợp nhau) thì người quý được ơn trời, kiện tụng tù ngục được công bình.
- Trên Quý là Chu Tước đầu giang (Sẻ son lao sóng) thì văn thư khẩu thiệt đều tiêu, tin tức tắt ngủm.
5. Sáu Kỷ trên Sáu Mậu gọi là Khuyển ngộ Thanh long (Chó gặp Rồng xanh) được Môn cát thì mưu vọng vừa lòng, người trên thấy thì vui mừng. Môn hung thì uổng tâm cơ khó nhọc.
- Trên Ất là Mộ thần bất minh. Địa hộ Bồng tinh (Thần mộ không minh, Ngõ đất sao Bồng) nên giấu tích ẩn hình thì lợi lắm.
- Trên Bính gọi là Hoả Bột địa hộ ( Lửa sao chổi soi Ngõ đất) người dương oán oán hại nhau, người âm dâm ô.
- Trên Đinh gọi là Chu tước nhập mộ (Sẻ son vào mộ) tờ văn tờ trạng, giấy tờ kiện cáo, trước cong queo sau thẳng.
- Trên Kỷ gọi là Địa hộ phùng quỷ (Ngõ đất gặp quỷ) xem bệnh chết, trăm sự đều không vừa ý.
- Trên Canh là cách Lợi cách phản danh (cách lợi lật lai danh), kiện cáo mà động trước thì không lợi, gặp sao âm thì có tính mưu hại.
- Trên Tân gọi là Du hồn nhập pháp (hồn chơi vào mộ), người lớn thì quỷ mị ám, người nhỏ thì hồn gia tiên quấy nhiễu.
- Trên Nhâm là Địa cương cao trương (Lưới đất trương cao) thì trẻ láu cá, gái dâm dật, người gái gian tình giết thương.
- Trên Quý là Địa hình Huyền vũ (Đất đầu Rùa xám) thì Nam Nữ tật bệnh sắp nguy, kiện cáo có tai họa tù ngục.
6. Sáu Canh trên Sáu Mậu gọi là Thái Bạch Thiên Ất Phục cung (Thái Bạch Thiên Ất nép trong cung) hung lắm, trăm sự đều không thể mưu làm.
- Trên Ất gọi là Thái bạch Bồng tinh (Thái bạch sao Bồng) lui thì cát, tiến thì hung.
- Trên Bính gọi là Thái bạch nhập huỳnh (Thái Bạch vào Huỳnh hoặc) xem giặc thì tất đến. Là khách thì có lợi, là chủ thì phá tiền tài.
- Trên Đinh là cách Đình Đình (đứng sừng sững) vì quen thân mà sinh việc quan tư. Được Môn cát thì có cứu.
- Trên Kỷ gọi là cách hình (Đâm) việc quan bị trọng hình.
- Trên Canh gọi Thái Bạch đồng cung( Thái Bạch cùng cung) họa quan nha ngáng trở, anh em hầm hè nhau.
- Trên Tân gọi là Bạch Hổ can cách (cách can Bạch Hổ), đi xa thì xe gẫy, ngựa chết.
- Trên Nhâm là Viễn hành thất mê đạo lộ (đi xa mất đường mê muội), trai gái tin tức sai lạc.
- Trên Quý là cách Đại (Lớn), người đi xa về đến, việc quan tư chỉ, sinh sản mẹ con đều hung.
7. Sáu Tân trên Sáu Mậu gọi là Khôn long bị thương (Rồng khôn bị thương) mắc việc quan tư phá tán, cúi ngửa giữ phận, vọng động thì mắc tai họa.
- Trên Ất là Bạch Hổ xương cuồng (Hổ trắng gào rống), người chết, nhà bại, đi xa gặp tai nạn. Người tôn trưởng không ưa, xe thuyền đều thương.
- Trên Bính gọi Can hợp bột soái. Huỳnh hoặc xuất hiện (Can hợp sao chổi, sao huỳnh hoặc hiện mọc), xem mưa thì không mưa, xem tạnh thì nắng hạn, xem việc thì vì tiền tài mà kiện nhau.
- Trên Đinh gọi Ngục thân đắc kỳ (Thân ngục được lạ). Kinh thương thì được bội, người tù thì được tha.
- Trên Kỷ gọi Nhập ngục tự hình (vào tù tự đâm) đầy tớ bội chủ. Kiện tố không giải bày được.
- Trên Canh gọi bạch Hổ xuất lực (Hổ trắng ra sức), dao nhọn tiến nhau, chủ khách can hại nhau. Nhịn nhường lui gót thì còn có che cưỡng, tiến thì máu đào ướt áo.
- Trên Tân là Phục ngâm, tại sân trời, công thì bỏ, tư thì làm, kiện tụng tù ngục, tự chuốc thêm tội.
- Trên Nhâm gọi Hung xà nhập ngục (Rắn dữ vào tù), hai trai tranh một gái, kiện tụng không dứt, động trước thì mất lý.
- Trên Quý gọi Thiên Lao Hoa cái (Lao trời Long hoa), trời trăng mất sáng, lâm vào lưới, động chủ sai suyển.
8. Sáu Nhâm trên Sáu Mậu gọi là Tiểu xà hoá Long (Rắn nhỏ hoá Rồng), trai thì phát đạt, gái sinh con sáng.
- Trên Ất gọi là cách danh tiểu xà (đổi tên rắn nhỏ) gái thì hiền ngoan, trai thì than thở. Xem thai; sinh trai, ngưu lộc rực rỡ (Lộc mã quang hoa).
- Trên Bính gọi thuỷ xà nhập hoả (Rắn nước vào lửa), việc quan, tai nạn liên miên không dứt.
- Trên Đinh gọi Can hợp xà hình (Can hợp rắn đâm) văn thư dây dưa không dứt, người quý thì . Nam tốt nữ xấu.
- Trên Kỷ gọi Hung xà nhập ngục (Rắn dữ vào tù) họa lớn đang đến, liệu chiều thì lành, kiện cáo đuối lý.
- Trên Canh gọi Thái Bạch cầm xà (Thái Bạch bắt rắn), hình ngục công bình, phanh phui tà chính.
- Trên Tân là Đằng xà tương chiến (Rắn bay quần nhau), ví được môn cát cũng không yên; nếu có mong muốn, bị người lừa dối.
- Trên Nhâm gọi xà nhập địa la (Rắn vào vó đất), người ngoài lôi cuốn, việc trong lẩn quẩn. Được Môn cát, sao cát thì đỡ sai suyễn.
- Trên Quý gọi là Ấu nữ gian dâm ( gái nhỏ dâm bậy), nhà có tiếng xấu. Môn cát sao hung (lật họa thành phúc).
9. Sáu Quý trên Sáu Mậu gọi là Thiên Ất hội hợp cát cách, có mừng về tiền của, hôn nhân tốt lành có người giúp đỡ thành hợp.Ví phải Môn hung, bách chế thì trái lại có họa, có quan phi.
- Trên Ất gọi là Hoa cái Bồng tinh (Lọng hoa sao Bồng), người quý ở ngôi Lộc, người thường thì bình yên.
- Trên Bính gọi là Hoa cái Bột soái (Lọng hoa xoè chổi), kẻ quý người tiện gặp nhau, người trên thấy thì mừng.
- Trên Đinh gọi Đằng xà yêu kiều (Rắn bay uốn éo) văn thư quan tư lửa đốt không lối chạy.
- Trên Kỷ gọi là Hoa cái Địa hộ (Lọng hoa ngõ đất), nam nữ mà xem tin tức đều trở ngại. Trốn tai lánh họa thì hay.
- Trên Canh gọi là Thái Bạch nhập võng (Thái Bạch vào lưới), lấy sức tranh kiện tụng hoà.
- Trên Tân gọi cương cái Thiên Lao (Lưới lọng Lao trời), xem kiện tội khôn tránh, xem bệnh chết.
- Trên Nhâm gọi Phục kiến Đằng xà (Lại thấy rắn bay) xem giá thú thì trùng hôn, gả chồng sau thì không con, không giữ được tuổi sống.
- Trên Quý gọi Thiên cương tứ trương (Vó trời bốn bức), người đi mất lối, bệnh kiện đều thương.

Giờ trên 10 Can
- Giờ trên Sáu Giáp, một mở một đậy (khai, hợp), trên dưới giao tiếp. Sao dương là mở, sao âm là đậy. Mạnh Trọng là đậy, Quý là mở.
- Giờ trên Sáu Ất, đi lại hoảng hốt, với thần cùng ra. Trên Ất địa bàn là với kỳ nhật cùng đi. Mưu làm đều tốt.
- Giờ trên Sáu Bính, muôn tinh muốn đi, là tượng Vương Hầu. Trên Bính địa bàn là uy trời (Thiên Uy), dùng binh, mưu việc, có cát không hung.
- Giờ trên Sáu Đinh, ra u vào minh, đến già không khổ (đáo lão bất hình). Dưới địa bàn có Đinh là đi cùng với nàng ngọc nữ (Hiệp Ngọc nữ nhi hình), trăm việc mưu làm đều cát.
- Giờ trên Sáu Mậu, cưỡi rồng muôn dặm, không hết cười. Trên Mậu địa bàn gọi là Thiên võ (oai trời), mọi việc công tư mưu làm thì cát.
- Giờ trên Sáu Kỷ, như thần xui khiến, đi ra, kẻ kia bị hung cừu. Trên Kỷ địa bàn là Địa hộ (ngõ đất), lợi việc ẩn giấu che đậy. Lợi tư không lợi công.
- Giờ trên Sáu Canh, ôm gỗ mà đi, cưỡng mà ra vào tất có đánh nhau. Trên địa bàn Canh gọi là Thiên Hình (Trời đâm), mọi việc đều hung.
- Giờ trên Sáu Tân, đi gặp người chết, cưỡng mà làm, tội vạ đến thân. Trên Tân địa bàn là Thiên đình (sân trời), mưu, làm đều hung.
- Giờ trên Sáu Nhâm, gọi việc nên cầm, cưỡng mà ra vào tai họa bay đến. Trên Nhâm địa bàn là Thiên lao (nhà giam trên trời), trăm việc đều hung.
- Giờ trên Sáu Quý, mọi người đều không trông thấy. Không biết Sáu Quý ra cửa là chết. Trên Sáu Quý địa bàn, gọi là Địa Võng (Lưới đất), việc ẩn giấu thì lợi, các việc khác đều hung.

_________________

Sao Thiên Bồng

Tụng đình tranh ngạnh gặp Bồng trời.
Trận được tên vang muôn dặm khơi.
Xuân với Hè dụng hay quá quá (rất hay)
Thu và Đông dụng xấu hơi hơi (nửa xấu)
Đi xa, dựng gả đều không lợi.
Chôn cất dựng xây cũng hỏng toi.
Ví được Sinh môn và Bính Ất.
Trăm ngàn công việc hẳn hơn người.
- Thiên Bồng gặp giờ Tý chủ có chó cắn, gà gáy, chim kêu náo động rừng, hoặc có đàn chim từ phương Bắc ganh nhau bay lại làm ứng, thì sau có người sứt môi tới, sau 60 ngày ứng việc gà đẻ ra trứng thịt. Chủ có cãi lộn, việc quan, kiện cáo, mất tiền của, hung.
- Gặp giờ Sửu chủ cây gỗ đổ làm thương người, có sấm chớp vang trời và mưa gió làm ứng, thì sau 7 ngày gà nhà đẻ trứng ngan, chó lên phòng. Trong 100 ngày thương trẻ nhỏ. Ông già làm trung gian, rộng cho điền sản. Trong 10 năm vượng lắm, sau thì hư bại.
- Gặp giờ Dần có đồng tử áo xanh cầm hoa lại. Phương Bắc có vị Hoà thượng mặc áo tới, lại chủ có cô gái làm ứng thì sau có giặc cướp tới cướp của. 60 ngày sau rắn vào nhà cắn người, trâu ngựa chết, làm thương miệng ăn. Ba năm sau thì nhà cửa tấn tới.
Gặp giờ Mão, chủ mây vàng bốn phương bay lên, người đàn bà mặc đồ bằng sắt ở đằng trước đi lại, rắn lớn qua đường làm ứng, thì sau nửa tháng có người âm truỷ cho tiền và vật lại. Trong 60 ngày, người nữ bị giặc hại, phá của. Trong 100 ngày được hoạnh tài, phát lớn.
- Gặp giờ Thìn, chủ cây ở phương Đông Bắc đổ làm thương người. Tiếng trống 4 mặt nổi lên. Người nữ mặc áo hồng đến làm ứng thì sau có chim khách, chim quạ kêu rối quanh nhà. Trộm giặc lấy trộm của tiền đồ vật. Trong 60 ngày có người bệnh ở chân lên nhà xin nhờ vả. Trong 3 năm sinh con quý, phát phúc.
- Gặp giờ Tỵ, chủ có người trên lưng lạc đà, mặc áo lông, người gái mang rượu đến, và người thầy lại làm ứng thì sau 100 ngày hoạch tài phát lớn, nhân võ mà lên quan phát đạt.
- Gặp giờ Ngọ chủ có người cầm dao lên núi, đàn bà dắt cậu bé áo xanh đến làm ứng, thì sau 40 ngày chủ nhà chết, 60 ngày chó cắn tiếng người vào nhà làm quái, người bệnh phong ở chân làm hung, phá của. ba năm phát vượng.
- Gặp giờ Mùi chủ có cậu bé lùa trâu ngựa tới, chim có từ phương Bắc bay lại, người gái mặc áo hồng đến làm ứng thì sau 60 ngày giặc cướp đến nhà cướp của hung hại.
- Gặp giờ Thân chủ có người đi lấy nước và cầm tán lọng đến. Bốn mặt trẻ em đập nước, đánh trống reo hò làm ứng thì sau 20 ngày trong ổ gà có rắn làm thương vật. trong một trăm ngày người đàn bà trẻ thắt cổ chết vì dâm dục, việc quan tư dấy lên hung hại.
- Gặp giờ Dậu chủ 4 phương có ngựa chạy lại, đàn quạ bay kêu làm ứng thì sau 100 ngày sinh con quý, thầy tăng làm giới đưa người âm thương đến. Tiền của sản nghiệp phát lớn.
- Gặp giờ Tuất chủ người già chống gậy đến, người có râu ria cắp rổ rá đến. Phương tây sấm mưa đến làm ứng thì sau đó có cho trắng tự đến, 80 ngày nhặt được binh khí, được hoạch tài, phát giầu to.
- Gặp giờ Hợi chủ trẻ con họp nhau thành bầy kéo tới, người gái mặc áo tang làm ứng thì sau 60 ngày nhân đuổi bắt giặc mà được tiền lúa. Trong ba năm bán thuốc và phù thủy phát tài.
____________________

Sao Thiên nhuế (Ong trời)

Thiên nhuế học đạo kết giao hay,
Lỡ gặp nơi nào thực chẳng may,
Dừng việc ra đi, lùi đỡ bận,
Yên doanh, xây dựng họa đâu đây,
Kinh hoàng, trộm cắp, lo con trẻ,
Nên các việc quan bị quở lây,
Ví được Kỳ môn vào chốn đó,
Mặn nồng mong muốn cũng bằng hay.
- Thiên Nhuế gặp giờ Tý, Thu Đông dùng thì cát, Xuân Hạ gặp thì hung. Có chim bay đánh chim cò. Trên phương Tây nam lửa đốt sáng, có hai người đuổi nhau làm ứng thì sau chủ mèo chó hủi cùi làm thương người, gây đến việc quan. Trong 60 ngày người gái thắt cổ chết. Mùa Thu Đông mà dùng có người âm Vũ cho tài sản, phát vượng.
- Gặp giờ Sửu, có tiếng trống từ phương Tây Bắc đến, trong 7 ngày có rùa, ba ba từ trong rừng đến, 60 ngày chủ trộm cắp, quan phi, phá tài, hung.
- Gặp giờ Dần đàn bà gầy có mang thai đến. Hạ Thu chủ có người mặc áo tơi đến, Xuân chủ có người mặc áo da lại làm ứng, ví được Kỳ Môn vượng tướng trong 60 ngày trâu vào nhà dâng huyết. Tài quan lộc đến. Con cháu hưng vượng phát lớn.
- Gặp giờ Mão chủ có người gái mặc áo màu cho vật và người quý cưỡi ngựa lại, hai con chó cắn nhau, trâu rồng làm ứng thì sau 60 ngày được tài sản của người phương Đông, chó cắn cậu bé chảy máu. Trong 3 năm đàn bà đẻ khó, hung.
-Gặp giờ Thìn có cây phương Đông đổ làm thương người. Có tiếng trống, tiếng nhạc, người gái mặc áo hồng đến làm ứng, thì đàn chim khách bay quay nhà vừa kêu vì tặc phá tài, làm ứng thì sau 60 ngày có người bệnh phong ở chân lên nhà nhờ vả. Sau hôn, sinh con quý. Phát vượng.
- Gặp giờ Tị có đàn bà và gái trẻ cùng tới làm ứng, thì sau 10 ngày được điền khí của người tuyệt hộ nhân. Trong 1 năm vì nước mà đại phát tài.
- Gặp giờ Ngọ có người sứt môi mặc áo trắng tới, người đàn bà chửa đi qua làm ứng thì sau 60 ngày mèo cắn người, nhân mua bán mà lại phát tài, được sản nghiệp của nhà hàng xóm bên Đông, phát lớn.
- Gặp giờ Mùi có người đi săn tới, thầy tăng mặc áo trắng mang trà đi qua làm ứng thì sau 7 ngày chim khách bay quanh cây lớn vừa kêu nhộn. Trong 1 năm động ôn hoàng, lửa cháy nhà, dân hại.
- Gặp giờ Thân chủ có người phương Đông mang lọng ô đi qua, thầy tăng, người râu tóc dài đi đến làm ứng thì chủ trâu ngựa làm thương người, chó cắn người làm ứng thì sau 200 ngày được sản nghiệp của người âm Vũ. Trong một năm trâu nước (thuỷ ngưu) vào nhà, chim đồng vào nhà, nhà chủ tật bệnh.
- Gặp giờ Dậu chủ có ngựa phương Tây đi qua, đàn chim hay kêu làm ứng thì sau 100 ngày có sư sãi thu xếp để người âm Thương đem cho tài sản, sinh con quý, phát vượng.
- Gặp giờ Tuất thì có ông già chống gậy đến. Phương Tây sấm mưa. Người râu tóc dài gánh vật lại, làm ứng thì sau có chó trắng tự đến, 60 ngày nhặt được vật dùng, ngựa của nhà binh, được hoạch tài, phát lớn.
- Gặp giờ Hợi có trẻ nhỏ thành bầy, đàn bà mặc áo tang đến làm ứng thì sau 60 ngày nhân có giặc mà được tiền của. Ba năm sau nhân phù thủy, thuốc men mà phát tài.
Thiên nhuế gặp 2 giờ Tuất Hợi cùng với Thiên Bồng gặp 2 giờ Tuất Hợi sự ứng nghiệm giống nhau, tra xem thêm vào thiếu xót.

____________________

Sao Thiên Xung (xông trời)

Dựng gả yên doanh, gái đẻ hờn
Ra đi, rời chốn, họa theo luôn,
Cất chôn, xây dựng đều không lợi,
Mọi việc khôn long cũng bị trờn.

- Thiên Xung gặp giờ Tý, chủ hạc tiên kêu lảnh, tiếng chuông làm ứng thì sau có sinh khí (khí sống) vào nhà. Trong 1 năm ruộng tằm bội thu, vợ mới chết, sau nhân cãi cọ mà được tiền tài.
- Gặp giờ Sửu chủ mây mù 4 mặt bốc lên, trẻ nhỏ thành đôi và đàn bà đến làm ứng thì sau mèo đen sinh con trắng, nhặt được kính cổ, phát tài. Trong 1 năm được ruộng nương của thầy tăng, sinh con quý.
- Gặp giờ Dần chủ có người quý cưỡi kiệu ngựa và mang đồ vàng bạc đến làm ứng thì sau 60 ngày tăng tiến văn khế. Sáu giống nuôi và đồ lưu ly vào nhà, gà mái mẹ gáy, nhà chủ có tai nạn, nhân cãi cọ mà được tiền tài. Người sinh tuổi Ất Đinh Kỷ phát phú quý.
- Gặp giờ mão chủ người gái mặc áo màu đen cho đồ vật và người quý cưỡi ngựa đến, hai chó cắn nhau dữ dội. Lại chủ trâu ruộng làm ứng thì sau 60 ngày được sản nghiệp của người phương Đông, nước sôi làm bỏng trẻ nhỏ, thêm tiền tài. Ba năm sau nghèo khó, hung.
- Gặp giờ Thìn, có cá leo cây, hổ trắng trong rừng ra, thầy tăng thành nhóm đến làm ứng thì trong 40 ngày sau nhặt được vật vàng trắng, phát hoạch tài, trong 70 ngày nhà chủ bị nạn gẫy thương.
- Gặp giờ Tị, chủ trâu dê tranh nhau đi, hai gái chửi nhau, phương Tây có tiếng trống làm ứng thì trong 60 ngày sau rắn cắn gà, trâu vào nhà, người gái đưa văn khế tới, trong 10 ngày sinh con Quý, phát lớn.
- Gặp giờ Ngọ chủ việc nhà phương Đông bốc cháy, người áo trắng kêu gào, chim rừng kêu ầm ỹ làm ứng thì trong 60 ngày sau, nhặt được đồ vật cổ bằng đồng, phát tài sản.
- Gặp giờ Mùi, có tiếng trống, trẻ nhỏ mặc áo tang, trâu ngựa thành đàn đi qua, người phương Tây Bắc kêu gào làm ứng thì trong 60 ngày sau dê trắng vào nhà, bốc phát tài, sáu giống nuôi hưng vượng.
- Gặp giờ Thân, chủ người áo trắng từ phương Nam cưỡi ngựa qua, lính tráng tranh nhau làm ứng thì trong 100 ngày sau người gái làm môi giới thêm người, phát tài sản.
- Gặp giờ Dậu: có thư tín từ phương xa tới, người nhà phương Đông nói chuyện Hồ ly, có người kêu gào, người đàn bà cầm lửa làm ứng thì trong 3 năm sau sinh con quý, phát phú quý chớp nhoáng.
- Gặp giờ Tuất: có 3-5 người lại tìm vật, thầy tăng thầy đồng sánh nhau chạy làm ứng thì sau 60 ngày gà gáy trên cây. Tin xa đến. Được tiền của của người ngoài. Trong 1 năm trẻ nhỏ bị trâu xéo làm thương.
- Gặp giờ Hợi: có người khập khiễng mặc áo xanh đến, nhà người phương Đông bốc cháy làm ứng thì trong 100 ngày sau thì mèo bắt chuột trắng. Trong 1 năm được tiền của, thêm người, thêm ruộng đất.

_____________________

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển3

Sao Thiên Phụ (Đỡ trời)

Thiên Phụ đi xa gặp tốt lành.
Xây dựng chôn cất, phúc dày thành.
Lên quan, rời chốn, đều lành tốt.
Mừng của Người thêm, trăm việc hanh.
- Sao Thiên Phụ gặp giờ Tý: chủ người phương Tây mặc áo hồng kêu to đến trước làm ứng thì sau 60 ngày được thêm tiền vật của người âm Thương, khỉ hầu vào nhà, bình báu có tiếng kêu thì chủ thêm quan thăng chức, sinh con quý, 12 năm hưng vượng, cát.
- Gặp giờ Sửu: chủ có người cầm dao giết người, kêu, đánh, nhiều chó cắn nhau thì sau có trai nhỏ, gà đồng vào nhà, 60 ngày có thầy tăng đến cho vật. Phương Đông Nam có người đưa văn khế tới. Tin xa lại. Trong 1 năm thêm người. Quan lộc lên, rất cát.
- Gặp giờ Dần: có người công chức cầm vật bằng sắt đến và người thợ đem cho vật làm ứng thì trong 60 ngày thêm ruộng nương, 11 năm sinh con quý, đại phát.
- Gặp giờ Mão có người nữ cầm dù đến, thầy đồng cốt thổi tiếng còi làm ứng thì trong 60 ngày phát tài, thêm đinh, có sinh khí nhà vật. Lúa thóc tiền vượng. Nhân người gái có việc công mà thêm ruộng đất, tài sản.
- Gặp giờ Thìn: có dê trắng và cho vàng đánh nhau. Người bán lúa và người bán đấu gặp nhau, trẻ nhỏ áo trắng gào khóc, đàn bà có mang đến làm ứng thì trong 1 năm sinh con quý, tài sản phát lớn.
- Gặp giờ Tị: có 2 người đánh nhau, người gái ôm áo vải gió 4 mặt bốc lên, trẻ nhỏ gào khóc, trong 60 ngày được thêm tài sản của người phương Đông, quỷ thần vận lại, phát lớn.
- Gặp giờ Ngọ: thầy sư sãi cầm vật, người gái mặc áo hồng đi qua làm ứng thì 60 ngày có người quý cho vật lạ, thêm được vàng bạc từ 4 phương. Trong 1 năm được tài sản của bà góa. Phát lớn.
- Gặp giờ Mùi: có 2 con súc húc nhau, có người cầm da lông tới, sư sãi thành bầy đi qua làm ứng thì sau có người phương Tây tranh tiền tài. Trong 100 ngày thêm tiền của văn khế.
- Gặp giờ Thân: có người đau chân mang rượu tới, người mặc áo ba màu tới, có tiếng trống phương Tây Bắc làm ứng thì trong nửa năm sau rắn từ trong giếng ra. Người áo trắng cho trâu dê đến, được tiền của người đàn bà, phát.
- Gặp giờ Dậu: chủ có thư văn từ phương xa đến. Người phương Đông nói chuyện Hồ ly hoặc có người kêu gào làm ứng thì có người gái đem lửa tới. Trong 3 năm sau sinh con quý phát lộc, tài sản.
- Gặp giờ Tuất: chủ có 3-5 người tới tìm vật, thầy tăng thầy đồng đi song nhau làm ứng, 60 ngày gà lên cây gáy. Tin xa lại. Được tiền của đàn bà, trẻ nhỏ bị trâu làm thương, trong 1 năm nghiệm thấy.
- Gặp giờ Hợi: chủ có người tập tễnh đi tới, người áo xanh lại, nhà người phương Đông Bắc lửa cháy làm ứng thì trong 100 ngày sau mèo bắt chuột trắng. Trong 1 năm thêm ruộng nương.
___________________

Sao Thiên Cầm (chim trời)

Thiên Cầm rời chốn với đi xa
Ngồi bán, đi buôn ý đậm đà,
Cầu quý, dâng thơ, lòng hỷ hả,
Cất chôn, xây dựng cỏ lên hoa.
- Gặp giờ Tý: chủ có đàn bà mang thai lại, người áo tía đến làm ứng thì sau 60 ngày có văn nhân đến đem cho vật, trong 3 năm nhân võ mà được quan, ngoài 20 dặm tiền của lú thóc tràn trề, người nhà ngàn miệng ăn, tài vượng.
- Gặp giờ Sửu: bà có tang mang đồ bằng thiếc đến, trẻ nhỏ vỗ tay, thổi sáo đánh trống reo hò làm ứng thì sau nhân đánh bạc được tiền, hoặc đào hầm mà được tiền, trong 3 năm được tiền của trộm cắp mà nên giầu
- Gặp giờ Dần: chủ gà gáy, chó cắn, thầy đạo đội nón lá đến làm ứng thì sau thu văn khế ruộng đất của người âm Vũ, người nhà phát vượng.
- Gặp giờ Mão: chủ có gió lớn thổi từ phương Đông, chim tróc kêu ở mạn Tây, đàn bà mang thai đến làm ứng thì trong nửa năm sau được tiền bốc phát. Khởi nghiệp nhà.
- Gặp giờ Thìn: chủ người trong 9 giòng (cửu lưu nhân) đến tranh nhau, quạ đen kêu bên phương Đông làm ứng thì sau 60 ngày có thầy tăng và người cô độc đem cho vật đến.
- Gặp giờ Tị: chủ có đàn quạ khoang bay lại và thầy đồng đánh nhau, người quý cưỡi ngựa qua làm ứng thì trong 70 ngày sau chủ đàn bà sinh con quý, thành nhà ruộng đất rất vượng.
- Gặp giờ Ngọ: chủ có người áo trắng đến, chó ngậm hoa, gà rừng đánh nhau, gió mưa đến làm ứng thì sau có người tự lại, nhận đánh bạc, việc công mà được tiền, gà đen sinh con trắng, ruộng vườn phát vượng.
- Gặp giờ Mùi: chủ có người già khập khễnh gãnh hoa qua, hoặc người áo xanh mang vật đến làm ứng thì trong 60 ngày sau được thêm đồ vật bằng sắt của người âm Vũ, phát vượng.
- Gặp giờ Thân: chủ trên không có chim bay lên, thầy đồng mang vật bằng giấy lại làm ứng thì trong 100 ngày sau người gái đem ngọc thuý về, trong 1 năm sinh con quý, khởi nhà.
- Gặp giờ Dậu: chủ lửa bốc cháy ở phương Tây, người kêu, trống đánh ầm ỹ, làm ứng thì trong 1 năm sau sinh con quý, phát vượng.
- Gặp giờ Tuất: chủ phương Đông Bắc có tiếng chuông trống, có bé áo xanh mang giỏ đến làm ứng thì trong 60 ngày sau có chuột trắng lại, được tiền của của bà góa, phát đạt.
- Gặp giờ Hợi: chủ có tiếng cười của bà bên Tây Bắc, gió cuồng thổi mạnh làm đổ nhà gãy cây, người kêu gào làm ứng thì trong 100 ngày sau được đồ vật của người thợ sắt và thầy tăng làm ra.
_________________________

Sao Thiên Tâm (Lòng trời)

Thiên Tâm luyện thuốc với cầu tiên
Buôn bán, đi xa, tốt lộc tiến,
Chôn cất, rời ngôi, lành tốt cả.
Muôn công ngàn việc, gặp đều nên.

- Thiên Tâm gặp giờ Tý: chủ có người đánh nhau, tiếng trống khởi ở phương Tây Bắc làm ứng thì sau 90 ngày có người mặc áo đỏ thu xếp để người âm Thương đem cho trục xe cũ bằng đồng. 12 năm sau ruộng tằm phát mạnh.
- Gặp giờ Sửu: có lửa cháy sáng ở phương Tây Nam, người chân khập khiễng mang vật đến cho, trong 6 ngày 2 con mèo tự lại làm ứng thì sau 40 ngày có người phương xa đem cho vật, thêm tài sản văn khế của người âm Thương.
- Gặp giờ Dần: chủ có chim nước thúy Kiều đến, tiếng chuông trống nổi, cô gái áo xanh xách giỏ đến làm ứng thì sau lửa cháy người.....(tiêu khấu), 40 ngày có việc công, 100 ngày thêm vàng bạc, nhặt được đồ cổ, thêm người thêm sản nghiệp. 3 năm được tiền của và sinh con quý.
- Gặp giờ Mão: chủ có bà chân khập khểnh đánh nhau, chó cắn và trống đánh, phương Bắc kiệu đến làm ứng thì trong 7 ngày sau thêm tiền của, trong 3 năm có trâu ngựa đến, tài lộc rất vượng.
- Gặp giờ Thìn: chủ mây khởi từ Tây Bắc, người áo xanh xách cá đến, người gái và thầy tăng đạo cùng đi làm ứng thì sau trong giếng khí bốc lên như mây, trong 3 ngày sinh con quý, sau chủ đỗ đạt giàu sang
- Gặp giờ Tị: chủ có người bế trẻ đến, người áo tía cưỡi ngựa đi qua, rùa leo lên cây làm ứng thì trong nửa tháng sau được thêm tiền của của người phương xa, người kiềng chân thu xếp để được thêm ruộng vườn, giống nuôi vượng. Người nữ trị nhà, bà góa ngồi trên nhà (tại đường).
- Gặp giờ Ngọ: chủ có gió mưa đến gấp, đến ngang đường, người gái mặc quần hồng mang rượu đến là ứng thì trong 60 ngày sau có người kiềng chân đem cho vật sống, trong 6 năm phát bốc tài sản.
- Gặp giờ Mùi: có người phép thuật cắp vật rỗng đi qua, ông già áo trắng đến làm ứng thì sau được văn khế đất nhà của người họ âm Thương: phát giầu.
- Gặp giờ Thân: chủ có thầy tăng đạo lại, chuông trống 4 mặt nổi, trăm chim đến kêu, người gái quần hồng đem cho rượu làm ứng thì sau 3 năm bà góa trị nhà.
- Gặp giờ Dậu: chủ có cô sư ni mang lửa từ Tây nam lại. Tiếng chuông trống phương Tây Bắc làm ứng thì trong 70 ngày sau được ngựa trâu, được tiền của quan phủ, tin xa đến.
- Gặp giờ Tuất: chủ có tiếng kêu giặc cướp ở phương Tây Nam, trẻ nhỏ dắt trâu đến làm ứng thì trong 100 ngày sau sinh con quý, gà sống lên tảng đá gáy, không cớ gì mà chó cắn, sau 3 năm thi đậu.
- Gặp giờ Hợi: chủ gà gáy chó cắn, ông già mặc áo mũ dạ đến tay cầm vật bằng sắt làm ứng thì trong 7 ngày sau có người ở xa lại nghỉ chân rồi để quên tiền vật mà đi.
__________________

Sao Thiên Trụ (Cột trời)

Thiên Trụ lánh mình giữ chẳng nên,
Ra đi, dựng trại hẳn không yên.
Bán buôn mọi việc đều không lợi,
Giở việc bày ra nguy thấy liền.
Sao thiên Trụ gặp giờ Tý, chủ có gió mưa lửa từ phương Đông dậy, người sứt môi đến làm ứng thì trong 60 ngày, rắn chó cắn người, dao nhọn đâm người, máu chảy, phá tài.
Gặp giờ Sửu có người thợ Mộc phương Bắc mang búa lại, trên cây sinh hoa vàng (Kim hoa) là ứng thì sau 60 ngày có thêm đồ vàng bạc của người âm Vũ, trong 3 năm có nạn cháy nhà, sản nghiệp bại, người đi, rắn vờn chó.
Gặp giờ Dần chủ chó sửa ngựa hí, thầy tăng đạo che dù tới, có mưa sấm, chim khách mừng kêu ầm ỹ làm ứng thì sau có giặc đến, luôn luôn kiện cáo phá tài, người gái đẻ non, chết.
Gặp giờ Mão chủ có người chặt cây, người trai đánh trống, ông già áo vàng vác bừa liềm đi qua làm ứng thì trong 60 ngày sau, gà mái mẹ, chó lên nhà, trong một năm có bà thiếu phụ chết. Hung.
Gặp giờ Thìn chủ có người từ phương Tây mang đồ vật bằng kim loại lại, làm ứng thì trong 7 ngày sau được thêm tiền vật của người âm, trong 3 năm phát lớn.
Gặp giờ Tị chủ có trâu đên kéo xe lợn lên núi, tiếng chiêng trống nổi làm ứng thì trong 60 ngày sau thêm tiền vật của người có họ âm Thương, trong 60 ngày có người gái xuống nước (hạ thuỷ), vật ngoài đồng vào nhà, trong một năm sinh con quý, triệu phát lớn.
Gặp giờ Ngọ chủ có người quý cưỡi ngựa đến, vào tháng Đông thì có tuyết, vào tháng Hạ Thu thì có quạ khoang bay kêu làm ứng, thì sau 5 ngày bà có thai mang tật làm lễ khóc lóc, trong 60 ngày được vật cổ bằng đồng ở bên nước, tiền hao hụt, miệng tiếng, Hung.
Gặp giờ Mùi chủ có người gái và thầy tăng đạo cùng đi, người phương Đông bắc cưỡi ngựa che lọng đi qua, làm ứng thì sau nhận người gái hồ ly mà thua thiệt, hung lắm.
Gặp giờ Thân chủ chim ưng bắt chim mà rơi xuống đất và người áo xanh mang lọng dù đến làm ứng, thì trong 3 năm sau, lửa trời đốt nhà cửa, nghiệp nhà đổ, hung.
Gặp giờ Dậu chuủphương Đông có một đoàn xe lớn nhỏ hơn mười chiếc đi làm ứng thì trong 70 ngày sau được đồ trang sức trên đầu của con gái, phát tiến.
Gặp giờ Tuất chủ có người con gái đem đồ bằng vải trắng đến, phương Tây Bắc có tiếng trống làm ứng thì sau về phương Đông bắc cây đổ vào người kêu la, sau 60 ngày rắn, bọ cạp cắn thương người, có bệnh ôn dịch, chết, lụn bại lớn, hung.
Gặp giờ Hợi chủ phương Tây dưới núi người kêu la làm ứng thì trong 100 ngày sau, nhân cứu lửa mà được tiền tài, lợi lớn./.
__________________

Sao Thiên Nhậm ( Gánh trời)
Thiên Nhậm sao cát việc đều thông,
Tế tự, cầu quan, giá thú đồng.
Chém rắn, yêu, ma, rời chôn: tốt.
Bán buôn, chôn cất, dựng xây: mừng
Sao thiên Nhậm gặp giờ Tý chủ có mưa đêm, gà gáy bến nước, phương Đông Nam có người đeo dao đi qua, làm ứng, trong 100 ngày sau, chủ vợ ly dị, người có họ chấm thủy đến nhờ vả, ruộng nương hao hụt, sau rồi trai thì trộm cướp, gái hát xướng. Hung.
Gặp giờ Sửu chủ có bà áo xanh mang rượu tới, phương Tây có tiếng trống làm ứng thì nửa năm sau thêm tiền của của người phương lạ, một năm sau chim anh vũ vào nhà, nhân cãi cọ mà được tiền, sau 9 năm, chó mèo cắn nhau, chủ đổ bác (cờ bạc). Cát
Gặp giờ Dần, chủ người gái họp thành đội đến hoặc đem lửa lại, trẻ con vỗ tay cười lớn làm ứng thì trong 60 ngày sau, nồi đất có tiếng kêu, ông già chết, trong 100 ngày có thêm sáu giống nuôi, sau nhân người sứt môi tranh hôn nhân mà việc hỏng.
Gặp giờ Mão, chủ có ông già chống gậy đến, chim khách mừng kêu nhộn làm ứng, thì trong 7 ngày sau, có người đem cho đồ bằng đồng bằng sắt, trong 60 ngày nhân người gái mà mà được thêm sáu giống nuôi, cờ bạc được quan lộc đến. Cát
Gặp giờ Thìn, chủ có trai gái áo trắng cùng đi, hoặc bà mang thai bế bé nhỏ làm ứng thì sau có người đem cho vật sống. Rất cát.
Gặp giờ Tị, chủ có 2 chó tranh nhau, người quê gánh củi, người công chức che dù qua làm ứng thì sau 60 ngày được tiền của người phương ngoài, người phương Nam đem cho cá, trong 1 năm sinh con quý, phát giàu sang. Cát.
Gặp giờ Ngọ, chủ từ phương Tây có chim màu vàng bay lại, thầy tăng và nho sĩ cùng đi làm ứng thì sau 40 ngày được vật báu của người quý, người áo tía cho nhà ở, sinh con quý. Cát.
Gặp giờ Mùi, chủ có chim trắng từ phương Tây Nam bay lại, phương Bắc có tiếng chuông trống làm ứng mưa gió đến thì sau 7 ngày có người gái đem cho vật áo trắng, hoặc vật giấy trắng lại, chủ 6 giống nuôi hưng vượng.
Gặp giờ Thân, chủ gió mưa kéo đến, người đánh trống, thầy tăng mặc áo vàng làm ứng thì trong 7 ngày người gái đem lửa nấu thang. Hung.
Gặp giờ Dậu chủ thầy tăng, ni cô mang lửa từ phương Tây Nam lại, phương Bắc có tiếng chuông trống làm ứng thì trong 70 ngày sau được của cải của quan viên, thêm trâu ngựa, được tin mừng đến, rất cát, tiền tài đầy đủ. Rất lợi.
Gặp giờ Tuất, chủ có người gái ôm vải lại, Có tiếng trống phương Tây Bắc, cây phương Bắc làm thương người, làm ứng thì sau 60 ngày rắn cắn người. Hung. Nếu có người già và cậu bé con cùng đến thì giải họa thành phúc.
Gặp giờ Hợi, chủ có tiếng khánh phương Tây, người mang lửa kêu, làm ứng thì trong 1 năm sau nhân cứu lửa được tiền, lợi lắm./.

Sao Thiên Ương (Ương trời)

Thiên ương dựng gả xấu nào tầy.
Rời chôn, đi xa cũng chẳng hay.
Buôn bán, thăng quan, phòng chết chóc.
Cầu tiến, xây dựng trắng hai tay.
Tại sao Thiên ương lại xấu vậy
Ăn chơi, cùng trác táng thì lại hay
Sao Thiên Ương gặp giờ T‎ý, chủ có tiếng chuông lắc từ phương Tây Bắc lại, 3-5 người cầm lúa chặt cây làm ứng thì trong 1 năm sau chủ có người tàn tật đến nhờ vả, nhà phá, 3 năm tự vẫn chết, trẻ nhỏ nước sôi làm chết.
Gặp giờ Sửu chủ có thầy tăng, thầy đồng từ Đông Bắc đến, có tiếng thanh la đập làm ứng thì trong một tháng sau lửa cháy nhà cửa, trong 1 năm chó nói tiếng người, trăm quái đều hiện, chết toi, bại lớn. Hung.
Gặp giờ Dần chủ có binh mã từ phương Đông lại và người bắt cá mang lưới qua làm ứng, thì sau người con gái nhặt được tiền của trên đường, sau 60 ngày thêm ruộng vườn của bà góa. Sét đánh vào nhà. Hung.
Gặp giờ Mão chủ có người xách đèn lồng qua, hoặc mang gạo lại, sấm vang làm ứng thì trong 60 ngày sau được thêm vật báu của người gái. Phá nhà.
Gặp giờ Thìn chủ có người gái phương Tây Bắc mang vật lại, gà lên cây, làm ứng thì sau 70 ngày vật ngoài đồng vào nhà, phát lớn tài sản.
Gặp giờ Tị chủ có người ôm văn thư, che lọng dù đến, hoặc ôm vật bằng thiếc, phương Nam đem cho vật sống, trong một năm sinh con Quý, phát đạt.
Gặp giờ Ngọ chủ có người ở hướng Nam lại, mặc áo hồng hoặc cưỡi ngựa mang văn thư đến làm ứng thì trong 60 ngày sau bị gỗ đá đánh chết, và có người thắt cổ chết, việc quan tư hung.
Gặp giờ Mùi chủ có bà mang thai đi qua, phương tây bắc có tiếng trống làm ứng thì trong 60 ngày nhà chủ chết chìm, trong một năm ôn dịch, bại lớn.
Gặp giờ Thân chủ có bà mang thai khóc lóc, phương Tây có tiếng chuông trống, thầy tăng mang một vật qua làm ứng thì trong 70 ngày sau hung lắm.
Gặp giờ Dậu chủ phương Tây người làm ồn ào, chim khách kêu nhộn, người áo trắng đi qua làm ứng thì sau có bé gái nhỏ mắc tật ở chân. Trong 100 ngày nhân cãi cọ mà được tiền.
Gặp giờ Tuất chủ có người gái đem đồ vật bằng sành hoặc bằng sắt giận dữ chửi bới làm ứng thì trong 100 ngày sau nhân kiện cáo mà phá tài.
Gặp giờ hợi chủ có người gái cầm lửa lại làm ứng thì sau có người hủi cùi lên nhà nhờ vả, thân chết, phá tiền.

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 4

Ba kỳ tới cung khắc ứng lành dữ.

A. Kỳ Ất tới cung Kiền, có người mặc áo vàng tới, hoặc gánh củi qua làm ứng, trong 60 ngày sau thêm tài sản của người âm Thương. Phát lớn.
Đến cung Khảm, có người mặc áo thâm tới hoặc có tiếng trống làm ứng, sau 7 ngày được tiền.
Đến cung Cấn có người mặc áo trắng đến, hoặc buộc vật đến, hoặc dùng lưới đánh cá đem lại làm ứng, trong một năm sau thêm người, nếu có người đem cho giống cầm nhà nuôi thì rất cát.
Đến Chấn, có người chài cá đến và 2 người nhỏ hướng lại làm ứng, thì trong 7 ngày thêm vật quý. Nếu nghe thấy ở phương Đông có người đã chết thi phát lớn.
Đến cung Tốn, có người áo trắng cưỡi ngựa qua, hoặc trẻ con cười đùa làm ứng, thì trong 3 năm sau sinh con quý, thêm tài sản bên phương Đông. Nếu thấy nhà bên Đông cháy hoặc có thắt cổ thì phát lớn.
Đến cung Ly, có người mặc áo màu làm ứng thì sau 30 ngày được tiền chớp nhoáng (hoạch tài). Nếu nghe thấy ở bên Đông có tiếng dao nhọn tự giết thì phát lớn.
Đến cung Khôn có 3-5 người đến làm ứng thì sau 7 ngày được tiền chớp loáng, 60 ngày thêm văn khế. Nếu nghe thấy ở phương Nam có sét đánh trâu, súc vật thì phát lớn.
Đến cung Đoài có 3-6 thiếu phụ đến hoặc chim khách thành quần làm ứng, thì sau 3 ngày hoặc 30 ngày được tiền của người âm Dốc, phát lớn hoặc sinh trâu ngựa thì phát tài chớp loáng.
B. Kỳ Bính đến cung Kiền có người khoác áo tới hoặc chim khách thành đội bay lại làm ứng thì trong một tháng sau thêm văn khế tài sản của bà góa. Nếu nghe thấy ở phương Nam có sinh đẻ thì phát vượng.
Đến cung Khảm có người mù mắt đến và phương Bắc có chim bay lại làm ứng thì sau 100 ngày, hoặc một năm nhân nước lửa mà sinh tiền, giàu to.
Đến cung Cấn có người mặc áo xanh đến, trẻ con khóc lóc hoặc đồng tử tay cầm tiền đồng, đồ vật làm ứng thì trong 7 ngày sau được thêm của báu, trong 1 năm thêm ngựa trắng, phát vượng.
Đến cung Chấn có đại tướng võ đeo quân khí tới. Nếu về Xuân mà nghe thấy tiếng sấm hoặc tiếng trống làm ứng thì trong chừng mươi hôm sau thêm được đồ cổ bằng đồng, trong một năm sinh con quý. Phương Bắc thấy có Rồng, sấm chấn động thì đại phát.
Đến cung Tốn có tiếng trống, ca nhạc làm ứng thì sau 7 ngày có người mặc áo nâu đến nhà được tiền chớp nhoáng. Nếu nghe thấy ở phương nam có chuyện quá sợ hãi, tất nhiên phát mau chóng.
Đến cung Ly có..................lại làm ứng thì 7 ngày hoặc 60 ngày thêm về đồng ruộng.......phát ruộng.
Đến cung Khôn có người mặc áo thâm tới, hoặc chim khách kêu ở phương Nam làm ứng, thì sau 2x7 ngày thêm tài vật của người phương Nam, hoặc trong một năm thêm trâu dê và tài sản của người hết dòng. Phát lớn. Nếu nghe thấy ở phương Đông có tiếng trống thì càng cát.
Đến cung Đoài có người chống gậy và cầm đồ đựng rượu với bế trẻ con làm ứng, lại có tiếng trống, tiếng nhạc thì 7 ngày thêm tiền. Trong vòng 1 năm thêm tiền và tài sản ở 2 phương Khôn Cấn. Phát lớn.
C. Kỳ Đinh đến cung Kiền, có người cầm dao nhọn tới hoặc dắt ngựa qua làm ứng thì trong 20 ngày hoặc 70 ngày, đào đất được tiền. Phát lớn.
Đến Khảm có người bế trẻ con lại, mây mưa từ phương Nam kéo lại, chim đen từ phương Tây lại làm ứng, trong 100 ngày có mừng rỡ về hôn nhân, rất cát.
Đến Cấn có người và bé con đánh chó làm ứng, thì sau 7 ngày hoặc 70 ngày thêm vật sống sắc vàng đen. Trong nửa năm thêm người, thêm ruộng vườn. Phát vượng.
Đến Chấn có 2 cô áo xanh đến hoặc đôi vợ chồng đến hoặc chim đen, trắng từ phương Nam lại làm ứng, thì trong 70 ngày sau thêm vật sống vàng trắng. Phát lớn.
Đến cung Tốn có tiểu nhi cưỡi ngựa qua. Phương Nam mây nổi, phương Bắc mưa giáng làm ứng thì trong vòng 1 năm sau, người ngã xuống nước chết chìm, đàn bà đẻ chết. Hung.
Đến cung Ly có người què cẳng hay mù mắt đến, với trẻ con cưỡi ngựa qua làm ứng thì trong 70 ngày sau, nhân lửa sinh tiền. Phát vượng.
Đến Khôn có người gái mặc áo xanh đến, với thầy tăng cùng đi hoặc trâu đen kéo xe làm ứng thì trong 70 ngày sau nhân nước mà phá tài đến bại.
Đến Đoài có người ôm văn thư sổ sách đến hoặc đuổi trâu, dê, nai làm ứng thì trong 60 ngày sau thêm ruộng đất đến giầu có.

10 can khắc ứng

Sáu Giáp Thiên đức quý nào tầy (tên là Thiên Đức, gặp ngày Dương, người trai áo xanh làm ứng thì trong 100 ngày có lộc, cát).
Sáu Ất thầy tu, chín phái hay. (tên Hiên. Là Thiên Quý chủ cao. Ngày Dương, Sao Dương là Quý nhân phương Nam. Ngày Âm, Sao âm là tăng đạo làm ứng thì trong 8 ngày hay 80 ngày có việc mừng sáng sủa, rất cát)
Sáu Bính rồng bay thấy đỏ trắng. (tên Thiên uy. Đi gặp người cưỡi ngựa đỏ trắng mặc áo xanh làm ứng thì trong 7 ngày hay 70 ngày thêm vật quý văn khế).
Sáu Đinh người ngọc điểm my mày. ( tên là Ngọc Nữ. Ngày Dương người gái lớn, ngày âm người gái trẻ làm ứng. 27 ngày sau thêm đồ cổ).
Sáu Mậu cờ dong chiêng trống đánh. (tên thiên Vũ. Ngày Dương nghe tiếng chiêng trống, ngày Âm nghe tiếng hát xướng, trong năm thêm tiền của nhà vợ).
Sáu Kỷ áo vàng áo trắng bay. (tên là Địa hộ. Ngày dương người nam áo vàng, ngày âm người nữ áo trắng hoặc một nam nữ cùng đi làm ứng, trong 60 ngày có người họ xa đến).
Sáu Canh tang tóc binh qua thây (là Thiên lợi. Ngày Dương sao dương là binh lính, ngày âm sao âm là người có tang làm ứng, trong 49 ngày có giấy tờ việc quan).
Sáu Tân chim chóc quạ kêu bay. (tên Thiên Tiên. Ngày Dương Sao Dương là người áo trắng, ngày âm sao âm là chim bay làm ứng, trong 1 năm nhân cãi cọ mà được tiền).
Sáu Nhâm động và mưa tuyết. (tên Thiên lao. Chủ sấm vang ngàn dặm. Ngày dương sao dương là người áo thâm. Ngày âm sao âm là người áo trắng làm ứng trong năm thêm miệng ăn).
Sáu Quý đàn bà chửa vui vầy. (tên Thiên tàng. Ngày dương sao dương là người chài cá. Ngày âm sao âm là bà có mang, ứng 60 ngày được kính đồng).

Tổng mục 8 môn khắc ứng

Cửa khai (cửa mở) khắc ứng

Cửa Khai muốn biết chiêm làm sao?
Đầy tớ, trâu, dê, trăm buổi vào.
Đất cát, hôn nhân,tài lợi lắm.
Cửa nhà rộng rãi, của đầy kho.
Có thêm sản nghiệp người thường tiến.
Tị-Dậu-Sửu năm thêm miệng chào:
Con cháu ơn vua nhiều tập ấm
Đai vàng áo tía gội ơn cao

Hỏi rằng: Cửa Khai thuộc Kim, là lúc khí trời khô héo,là thời muôn vật tận cùng lấy gì bảo là cát?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Khai là kim, là lúc muôn vật héo hết. Sao không biết muôn vật héo hết mà có sống lại. Cửa Khai thuộc Kiền, trong Kiền có Hợi. Kiền nạp Giáp Nhâm (thu mầm ở Nhâm). Kim động thì thủy sinh, sinh mà sinh muôn vật, cho nên giúp sống cho muôn vật lúc mới đầu. Lại là Thiên Môn ( cửa Trời), cho nên cát. Nếu gặp được kỳ Ất (gọi là Thiên Độn = ẩn Trời) là được tinh Nhật che chở. Hợp với kỳ Bính, là được tinh nguyệt che chở. Hợp với kỳ Đinh là được Thái Âm ( âm cả) che chở, mọi việc mưu đều nên, danh chính ngôn thuận. Dùng việc công 100 cái thì được 100 thái. Dùng việc tư tất bị người khác làm tiết lộ thì lại gặp hung cừu. Ưa tới Kiền Đoài là được khí tướng (khí khá). Vào cung Khảm thủy, Kiền thủy sinh nhau như mẹ ngoảnh lại con. Vậy nên là cát. Ra đi 4 dặm hoặc 40 dặm, thấy lợn chuột các loài ấy, 60 dặm gặp qu‎ý nhân đi xe ngựa, có rượu thịt. Vào cung cấn là vào Mộ. Vào cung Chấn là Bách (bức bách), lại là 4 khí. Vào cung Tốn là phản ngâm. Vào cung Ly thì Kim bị Hỏa khắc, không lợi.
Ra cửa Khai, 30 dặm, gặp quý nhân, cát. 40 dặm gặp lợn ngựa, có rượu thịt, cát.
Có kỳ Ất tới thì thấy Qu‎‎‎ý nhân mặc áo hồng.
Có kỳ Bính tới, thấy ông già chống gậy.
Có kỳ Đinh tới, thấy người mang vật bằng tre gỗ thì ứng cát.

Động ứng
Cửa Khai tới Khai, 6 dặm, 16 dặm thấy quý nhân và đánh nhau làm ứng.
Tới Hưu, 1 dặm, 11 dặm gặp con vật 4 chân đánh nhau, người đàn bà mặc áo thâm và văn nhân nói chuyện công danh.
Tới Sinh gặp người âm với vật 4 chân, hoặc người dương nói chuyện tranh của cải.
Tới Thương 3 dặm, 13 dặm gặp người đàn bà đi xe ngựa, người theo thổi lửa.
Tới Đỗ 4 dặm, 14 dặm gặp người dương kêu gấp hoặc nhà sư làm ứng.
Tới Cảnh 9 dặm, 19 dặm gặp quý nhân cưỡi ngựa hoặc ôm văn thư làm ứng.
Tới Tử, 2 dặm, 12 dặm, gặp người già kêu khóc, hoặc đào đất chôn cất làm ứng.
Tới Kinh, 7 dặm, 17 dặm gặp anh trai em gái cùng đi làm ứng.
Tĩnh ứng
Cửa Khai tới Khai, chủ có mừng về tiền và của báu của quý nhân.
tới Hưu, chủ thấy mừng về tiền tài của quý nhân, lại chủ khai trương phố điếm, ăn mừng, đại lợi.
Tới Sinh chủ gặp quý nhân, mong cầu vừa ý.
Tới Thương chủ biến động, và việc thay đổi, đều không cát.
Tới Đỗ, chủ mất mát, in bản thư khế có hung nhỏ.
Tới Cảnh, chủ gặp quýnhân, nhân có việc văn thư, không lợi.
Tới Tử, chủ có việc quan ngại về việc quan tư, trước lo sau mừng.
Tới Kinh, chủ 100 việc đều không lợi.
Mệnh xem thì
Mệnh Kim Thuỷ được cát lợi. Mệnh Thổ bình ổn. Hai mệnh Hoả Mộc chủ quan tư, tật bệnh, phá tài, không lợi.

Đoán rằng:
- Cửa Khai trên Giáp, danh tiền đều được.
- Trên Ất, món tiền nhỏ, có thể cầu.
- Trên Bính, chủ quý nhân đeo ấn.
- Trên Đinh, tin xa tất đến.
- Trên Kỷ, công việc đầu mối không định.
- Trên Canh, đường sá, kiện cáo, mưu làm giữa hai ngả.
- Trên Tân, đường sá, người âm.
- Trên Nhâm, đi xa có mất mát.
- Trên Quý, người âm mất tiền, hung nhỏ.

Lại có ca rằng
Vào quan được lễ làm việc nên vui
Kiếm người được gặp, nhậm chức hay rời
Cầu tiền vừa ý, bệnh tật dễ lui
Ra đi gặp bạn, người vắng tới nơi.
Mở hàng trao đổi, lợi lộc mười mươi.
Quý nhân cầu gặp vừa ý vui cười.
Dựng xây muôn vật, đều được tốt tươi.

_____________________

Cửa Hưu (Cửa lành) khắc ứng

Cửa Hưu rất thích tụ tiền nong,
Trâu ngựa heo dê tự đến đông,
Dựng gả phương Nam nơi xứng ý.
Thăng quan tiến chức ngự đài cung.
Lại thêm sản nghiệp người âm Vũ.
Yên ổn trong nhà tai họa không.

Hỏi rằng: Cửa Hưu thuộc Thuỷ, không vật gì không bị giết, nơi sương tuyết lạnh lẽo, chỉ toàn khí âm, là tinh của Huyền Vũ, ba sáng không chiếu tới, là cung quỷ tà náu hình, thì còn lấy gì làm cát?
Cù Tiên đáp rằng: Nước cửa Hưu là nơi âm cùng, thực tại là cung Bình Báu. Vạn vật lấy nước làm nước sinh sát để phát khí dương ra ngoài, lấy nước làm khí chết, để thu gom về gốc mà dấu tinh ở trong. Tý là nơi 1 dương vừa trở lại, cỏ cây gặp đó mà nẩy mầm, là cửa lật gốc về nguồn nên lấy đó làm cát.
Cửa Hưu hợp với Kỳ Đinh, dưới có Thái Âm là Nhân độn, được tinh hoa của sao che chở, trăm việc đều cát. Vượng ở cung chấn. Tướng ở cung Khảm, sinh ở Kiền Đoài đều cát cả. Ở cung Khôn, Cấn và giữa, bị Thổ khắc chế. Ở Tốn là vào Mộ, ở Ly là phản ngâm, đều không lợi. Nếu vào yết cửa quý, lấy hoà hợp thì trăm việc đều tốt. Ra đi 50 dặm gặp rắn chuột, vật đen trong nước làm ứng.
Tĩnh ứng:
- Cửa Hưu trên Hưu, cầu tài, đưa người, vào yết người quý đều cát, đến diện kiến quan trên thì rất lợi.
- Trên Sinh, chủ được tiền của của người âm, và đến người quý mưu vọng, tuy chậm mà cát.
- Trên Thương, chủ lên quan, vui mừng, cầu tài không được. Có người thân cũ chia tài sản. Biến động, không cát.
- Trên Đỗ, chủ phá tài. Mất vật không tìm được.
- Trên Cảnh, chủ cầu mong văn thư ấn tín, không tới, lại chiêu miệng tiếng. Hung nhỏ.
- Trên Tử, chủ cầu văn thư ấn tín, việc quan tư, hoặc tăng đạo đi xa, không cát. Xem bệnh, hung.
- Trên Kinh, chủ tổn tiền tài càng thêm và tật bệnh kinh sợ phá tài, không lợi.
- Trên cửa Khai, chủ khai trương cửa hàng, vào cửa quý, cầu tiền, việc vui mừng, rất cát.
Động ứng
Cửa Hưu trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm, gặp vợ chồng người áo xanh ca hát làm ứng.
Trên Cấn, 8 dặm, 18 dặm, gặp bà mặc dưới đen trên vàng, hoặc người công lại áo thâm.
Trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm gặp người thợ vác cây côn gỗ, hoặc người công lại áo thâm.
Trên Tốn, 4 dặm, 14 dặm, gặp bà áo xanh dắt trẻ nhỏ vừa đi vừa hát.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặm gặp ông công lại áo thâm cưỡi lừa ngựa.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm, gặp người mặc áo tang khóc lóc, có người áo xanh lục đi bên.
Trên Đoài 7 ddặm, 17 dặm gặp người áo thâm đạp chân, đàn bà dẫn trẻ nhỏ.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp người đánh…? Than thở, súc vật ganh nhau.
Đoán rằng:
- Cửa Hưu trên Giáp Mậu, tài vật hoà hợp
- Trên Ất, cầu mưu lớn không được, cầu nhỏ thì được.
- Trên Bính, Văn thư hoà hợp vui mừng.
- Trên Đinh, trăm kiện đều cát.
- Trên Kỷ, mờ ám không yên.
- Trên Canh, văn thư kiện cáo sau giải hoà.
- Trên Tân, tật bệnh chậm khỏi, mất vật không lấy lại được.
- Trên Nhâm, Quý, người âm kiện cáo liên miên.
Người xem mạng Thủy, mạng Mộc, lợi lắm. Mạng Kim thì bị hao thoát. Mạng Thổ, có tai tật. Mạng Hoả rất hung.
Năm tháng ngày giờ Bính Đinh Mậu Kỷ Tị Ngọ Thìn Tuất Sửu Mùi thì không lợi

_________________

Cửa Sinh ( Cửa sống) khắc ứng
Cửa Sinh xem được tốt tươi lành.
Người của cùng tăng, mọi vật hanh.
Tý Sửu năm nay, ba bảy tháng (tháng 3, tháng 7)
Trâu, dê, lừa, ngựa chật môn đình.
Lúa, tằm, vải vóc, đều dư dật.
Áo tái, con trai, chốn đế kinh.
Thêm ruộng phương Nam Thương khách (người âm Thương) tiến.
Cháu con hưởng lộc vị công khanh.
Hỏi rằng:
Cửa Sinh ở Cấn Thổ là phương Thiếu Dương, lấy gì bảo cát?
Cù Tiên đáp rằng: Cấn là Dần vị. Trời mở ở Tý, Đất giải ở Sửu, người sinh ở Dần. Khi Trời đến đó, ba Dương đều đủ, mở Thai. Do đó mà vạn vật đều sinh. Dương hồi khí chuyển, tình trời đất muốn sinh, rộng đến muôn vật mà đạo nhân sinh ra vậy, vì thế mà là cửa rất cát.
Cửa Sinh với Kỳ Ất, dưới là cung Cửu Địa, là Địa độn, là tinh Nhật che chở, cát. Hợp với Kỳ Bính là tinh Nguyệt che chở và là Thiên độn. Hợp với Kỳ Đinh là được tinh Sao che chở và là Nhân độn, trăm việc đều cát.
Được cửa Sinh, nên thăng quan, xây dựng, giá thú, cầu tài, chăn nuôi đều rất cát. Đi ra ngoài, 60 dặm gặp quý nhân xe ngựa, rất cát. Đến 2 cung Kiền Đoài là vượng. Đến cung giữa là tướng. Đến Khảm là Bách. Đến Chấn bị Mộc khắc chế. Đến Tốn là vào Mộ, đều không lợi. Sinh ở cung Ly, cát.
Tĩnh ứng:
Cửa Sinh trên Cấn, chủ đi xa, cầu tài sản, cát.
Trên Chấn, chủ thân bằng biến động, đường đi không cát.
Trên Tốn, chủ người âm âm mưu, phá sản, khônglợi.
Trên Ly, chủ người âm, trẻ nhỏ không yên, và việc văn thư sau cát.
Trên Khôn, chủ nhà ruộng, quan tư khó cầu
Trên Đoài, chủ người trên, tài sản, kiện cáo, bệnh tật đều lâu khỏi, cát.
Trên Kiền, chủ gặp quý nhân, cầu tài, phát lớn.
Trên Khảm, chủ nơi người âm mong cầu tài lợi, cát.
Xem thân mệnh thì người mệnh Hoả, Thổ, Kim rất lợi. Mệnh Thuỷ, Mộc thì không lợi, nhiều ách nạn. Phải kỵ năm tháng ngày giờ: Giáp Ất Dần Mão vì không lợi. Nếu là mệnh Nhâm, Quý thì chủ thủng trướng, hung.
Cửa Sinh trên Giáp Mậu: giá thú, cầu tài, yết người quý đều cát.
Trên Ất, chủ người âm sinh sản chậm, cát.
Trên Bính, chủ có cùng quý nhân, hôn nhân, thư tín.
Trên Đinh, chủ kiện cáo, hôn nhân, tài lợi đều đại cát.
Trên Kỷ,chủ được quý nhân gìn giữ, cát.
Trên Canh, chủ tài sản tranh kiện, phá sản, không lợi.
Trên Tân, chủ việc quan, tật bệnh,sau cát.
Trên Nhâm, chủ rơi mất tiền, sau được, trộm cắp dễ bắt.
Trên Quý, chủ hôn nhân không thành, còn cát việc khác đều cát.
Động ứng:
Cửa Sinh ra đi 8 dặm, 18 dặm, gặp ngựa xe quý nhân, hoặc người công lại áo đen. Có kỳ Ất thì gặp thỏ hay 2 chuột cắn nhau. Có kỳ Đinh thì gặp người bệnh chân, hoặc 2 người tranh tiền ầm ỹ. Có Đinh, gặp người lưới cá, phương này rất lợi, trăm việc đều lợi.
Cửa Sinh trên Cấn 8 dặm, 18 dặm, gặp người áo đỏ.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm gặp người áo đenvà người gánh tiền.
Trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm, gặp người công lại cầm côn, hoặc đắp đất trồng cây.
Trên Tốn, 4 dặm, 14 dặm gặp người dắt vật màu sặc sỡ, đi và hát, và thở dài.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặm, gặp xe ngựa quý nhân, có nhiều người đi theo.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp người có tang khóc lóc.
Trên Đoài, 7 dặm, 17dặm gặp người đang ngăn súc vật và có người nói chuyện về kiện cáo.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp xe ngựa người quý và có rắn cắn lợn.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 5

Cửa Thương khắc ứng

Cửa Thương thôi khỏi nói, Trời chôn người chết uổng. Chồng vợ gặp tai ương. Năm ròng tháng bệnh vương. Nhọt sảy đi không được. Tin đợi chờ không có. Chân què gẫy máu loang. Ngoài ra xấu đủ đường.
Hỏi rằng: Cửa Thương thuộc Mộc, chính gặp thời Xuân Phân, mầm non chồi ra, nên nói là cát mà lại bảo là hung, xin nói lại cho rõ.
Cù Tiên đáp rằng: Mộc cửa Thương gặp đúng khí Xuân Phân, tinh dịch từ trong mà ra, phát dương ra ngoài, đến nỗi gốc rễ tiết ra quá nhiều. Đó gọi là ngoài Hoa, mà trong Hư, không thắng nổi khó khăn. Huống chi tháng 2, mầm non không đương nổi sương lạnh, do đó mà gọi là Thương, mà là hung.
Cửa Thương được Kỳ thì chỉ có các việc đuổi bắt kẻ chạy trốn, trộm cắp, đi săn, đánh cá, đòi nợ, cờ bạc, vui đùa là cát. Nếu lên quan, ra đi, hôn nhân, buôn bán, xây dựng, chôn cất, đều không lợi. Rất hung.
Tĩnh ứng:
- Cửa Thương trên Chấn chủ biến động, đi xa bị gãy đau.
- Trên Tốn, biến động, mất mát, quan tư, cùm kẹp, trăm việc đều hung.
- Trên Ly, chủ văn thư ấn tín, miệng tiếng rên rỉ, bề bộn.
- Trên Khôn, chủ quan tư hung, ra đi rất kỵ, xem bệnh, hung.
- Trên Đoài, Chủ người than tật bệnh,lo sợ, làm người mối không lợi, hung.
- Trên Kiền, chủ có quý nhân khai trương. Có trốn chạy mất, việc biến động, không lợi.
- Trên Giáp Mậu, chủ mất mát, không được.
- Trên Ất, chủ cầu mau không được, còn cần phòng kẻ trộm tiền nong.
- Trên bính, chủ mất mát trên đường.
- trên Đinh, chủ tin đến không đích (thật).
- Trên Kỷ, chủ tiền tán, người bệnh.
- Trên Canh, chủ kiện giam bị hình, hung.
- Trên Tân, chủ vợ chồng riêng mang oán hận.
- Trên Nhâm, chủ tù, trộm liên miên.
- Trên Quý, tù ngục ngậm oan, có lý không thân ra được.
Động ứng:
Cửa Thương, ra 30 dặm gặp người tranh đấu, gặp người đánh cá hoặc súc vật đánh nhau, nên lánh đi, cát.
Cửa Thương trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm, gặp 2 xe tranh nhau tiến quãng đường tắc.
Trên Tốn, 4 dặm, 14 dặm, gặp người công lại, và người chặy cây, và bà bế tiểu nhi đi qua.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặmgặp người mặc áo mầu cưỡi lừa ngựa qua.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp đám tang và người con hiếu khóc lóc.
Trên Đoài, 7 dặm, 17 dặm, gặp người đánh nhau, người lùa súc vật, có một bà và thiếu nữ cùng đi.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp người phá đổ đường, dựng yên cửa, ghép ván, hoặc 2 con lợn cắn nhau.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm gặp bà già và trai trẻ cùng đi.
Trên Cấn, 8 dặm, 18 dặm gặp người đẳn cây hoặc đắp đất.
Xem thân mệnh: Mệnh Thuỷ, Hoả, Mộc thì cát. Mệnh Kim chủ bệnh. Mệnh Thổ hung. Việc quan tư bị hình trượng (phạt roi).

_____________________

Cửa Đỗ khắc ứng (Cửa đóng)

Cửa Đỗ nguyên là gỗ, động vào, họa tiếp liền. Tháng năm Hợi Mão Mùi, gặp phải, ngục tù kề bên. Sống chết tan rời đó. Giống nuôi chết dịch ôn. Sai xương, đòn vấy máu. Hại đếncả đàn con.
Hỏi rằng: Cửa Đỗ là tượng Mộc, đến Hạ Đông là thời phồn thịnh, vốn là khí vượng, lấy gì mà bảo là hung?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Đỗ dương Mộc, gặp Hạ Đông phát sinh ra ngoài, tân dịch tiết đi, khí dương can cực, một âm đang đến. Tính Mộc đến đó thì sức chùn lại, muốn thu gom thì không đủ sức thu gom, muốn sinh vượng thì lực đã cạn, lại không tiết được sức để nuôi cháu con ( dĩ thực= kỳ tử tôn), mà phải nấp giấu con ở nơi rắn chắc (kiên mật chi xứ) sợ rằng con có thể bị thương, cho nên gọi là cửa Đỗ (cửa đóng). Có hung nhỏ.
Cửa Đỗ là phương tàng hình, chỉ nên là nơi lánh tai nạn, lấp huyệt, đuổi bắt là cát. Các việc khác đều không lợi.
Tĩnh ứng:
- Cửa Đỗ trên Tốn chủ: nhân cha mẹ tật bệnh mà ruộng nương hao hụt. Hung.
- Trên Ly, chủ văn thư ấn tín trở cách, người dương trẻ nhỏ tật bệnh.
- Trên Khôn, chủ văn thư đất cát nhà cửa mất lạc, việc quan tư mất tài. Hung nhỏ.
- Trên Đoài, chủ trong nhà cửa lo lắng, sợ hãi, và có việc kiện cáo.
- Trên Kiền, chủ gặp quan trường quý nhân,. Mưu việc chủ trước phá tiền tài, sau cát.
- Trên Khảm, chủ cầu tiền có ích.
- Trên Cấn, chủ người dương trẻ nhỏ phá tài và ruộng nương, cầu tiền không thành.
- Trên Chấn, chủ anh em tranh nhau điền sản, phá tài.
- Trên Giáp Mậu, chủ mưu việc không thành. Cầu tiền ở nơi mất thì được.
- Trên Ất, mưu cầu của cải của người dương thì được. Chủ không minh bạch mà sau thành kiện cáo.
- Trên Bính, chủ mất văn khế.
- Trên Đinh, người dương mắc kiện tụng, giam giữ.
- Trên Kỷ, chủ riêng mưu hại người mà mắc lỗi (chiêu phi).
- Trên Canh, chủ nhân người gái mà đến kiện tụng mắc bị phạt hình.
- Trên Canh, chủ đánh người bị thương mà kiện cáo, người dương, trẻ nhỏ hung.
- Trên Nhâm, chủ việc gian dâm, trộm cắp, hung.
- Trên Quý, chủ trăm việc đều trở ngại. Bệnh thì không ăn.
Động ứng:
Cửa Đỗ, ra 30 dặm, gặp cô gái, cùng đi, ca hát. 60 dặm gặp người ác.
Kỳ Ất tới, gặp bà còn trẻ mặc áo mầu. Kỳ Bính tới thấy lửa bốc cháy nhà, hoặc vật có ngọn lửa nhỏ. Kỳ Đinh tới gặp người cỡi ngựa đeo cung nỏ.
Cửa Đỗ trên Tốn, trong 4 dặm gặp người đàn bà dẫn cháu mặc áo mầu lục.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặm gặp đàn bà chửa mặc áo mầu hoặc người công lại cưỡi ngựa đỏ.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp người có tang khóc lóc.
Trên Đoài, 7 dặm, 17 dặm gặp hát xướng ầm ỹ (ca xướng là thanh), hoặc người nói chuyện về kiện cáo.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm gặp hát xướng và chó cắn lợn.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm, gặp hát xướng đùa nghịch, hoặc người áo thâm bế trẻ.
Trên Cấn, 8 dặm, 18 dặm, gặp người gánh tiền, hoặc tay cầm thức ăn kêu lên.
Trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm gặp người thợ gỗ mang cây côn gỗ.
Xem thân mệnh: Người mệnh Hoả phát quý, mệnh Thuỷ phát phú. Mệnh Mộc bình yên. Mệnh Kim tật bệnh. Mệnh Thổ việc quan tư, hung. Ví là năm tháng ngày giờ Kim hoặc là năm tháng ngày giờ Thổ thì không lợi. Như gặp năm tháng ngày giờ Thuỷ Hoả thì cát.

__________________

Cửa Cảnh (Cửa Lớn) Khắc ứng
Cửa Cảnh nơi vương máu. Họa sinh nhiều lắm lắm. Ngoài hung và chết ác. Sống ly cùng chết biệt. Vào quan bán ruộng vườn. Con cháu khó tai ương. Giống nuôi thấy chịu thương. Xem được phải phòng phương.
Hỏi rằng: Cửa Cảnh thuộc Hoả, phương Nam, lệnh mùa Hạ, gặp đúng vực Ly minh, lấy gì làm hung?
Cù Tiên đáp rằng: Cửa Cảnh ở khí lệnh mùa Hạ, muôn vật lớn khoẻ, là thời sắp trở về già, gần cửa cung Khôn rồi. Lại là số thịnh của Dương, khí Trời Đất đến đó sắp có tình giết chóc. Tuy là phương trên sáng dưới cang, cũng không cát cả được (diệc bất toàn cát). Duy có lợi về việc văn thư, nhân đó mà bảo là hơi cát (thứ cát).
Dùng cửa Cảnh chỉ nên dâng thơ, hiến kế sách, tâu đối, tuyển đưa tướng sĩ là cát. Ngoài ra thì không lợi.
Tới Khôn, Cấn, Trung thì cát. Cung 3, 4 thì lành. Cung 1 phản ngâm. Cung 6, 7 bị bách, đại hung. Nếu được 3 Kỳ, nên đặt mưu lừa, phá trận, công lửa, ra hiệu lệnh, phong công thưởng tước, các việc như thế thì cát.
Tĩnh ứng:
Cửa Cảnh trên Ly, tờ văn trạng chưa được động, mới được chú ý đến. Trong có trẻ nhỏ mắc lo âu.
Trên Khôn, chủ việc quan, nhân kiện cáo vế việc tranh nhau ruộng nhà, nhiều than thở.
Trên Đoài, chủ người dương trẻ nhỏ tật bệnh, hung.
Trên Kiền, chủ người làm quan thăng chức, cát. Cầu văn thư ấn tín cũng cát.
Trên Khảm, chủ văn thư mất mát, tranh kiện không dứt.
Trên Cấn, chủ người âm sinh sản, mừng lớn. Lại cầu tiền rất vượng, lợi, người đi xa đều cát.
Trên Chấn chủ lấy vợ là người thân, trẻ nhỏ miệng lưỡi ganh nhau, hoặc trình bày nhiễu loạn.
Trên Tốn, chủ văn thư mất mát, tán tiền, sau bình.
- Trên Giáp Mậu, chủ: nhân tài sản kiện cáo, đi xa thì cát.
- Trên ất, chủ việc kiện không thành.
- Trên Bính, chủ văn thư cấp bách, hoả tốc không lợi.
- Trên Đinh, chủ nhân văn thư tờ trạng mà mắc lỗi.
- Trên Kỷ, chủ việc quan dây dưa.
- Trên Canh, chủ kiện người mà thành kiện mình (chủ tụng nhân tự tụng).
- Trên Tân, chủ người âm kiện cáo.
- Trên Nhâm, chủ giặc quấy luôn luôn (nhân tặc khiên liên)
- Trên Quý, chủ: nhân tớ trai gái mà đến (nhân nô tỳ đáo).

Xem thân mệnh: Mệnh Hoả có nạn lửa. Mạng Thủy thì rất hung. Mạng Kim tật bệnh. Mạng Mộc trung bình. Mạng Thổ thì giàu. Nếu gặp năm tháng ngày giờ Kim Thuỷ thì không lợi.

Động ứng:
Cửa Cảnh, đi ra 30 dặm gặp rắn lớn vằn đỏ. Ngoài 70 dặm, nhân nước lửa mà mất vật. nếu làm cưỡng thì chủ nhà bên Đông đụng đầu với trẻ nhỏ.
Cửa Cảnh trên Ly, 9 dặm, 19 dặm gặp người ôm văn thư, lại có lửa cháy, kinh sợ.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp người tang khóc lóc, người mặc áo màu cưỡi ngựa.
Trên Đoài 7 dặm, 17 dặm, gặp đánh nhau tranh kiện, nên lánh.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp người trong thành đi lững thững, ông quan cưỡi ngựa.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm, gặp người gái khóc lóc cùng đi với người bán cá.
Trên Cấn, 8 dặm,18 dặm, gặp trẻ nhỏ lùa trâu, người vác tiền trong túi.
Trên Chấn, 3 dặm,13 dặm, gặp người gái mặc áo màu ngồi trên kiệu, hoặc cưỡi lừa ngựa.
Trên Tốn, 4 dặm,14 dặm, gặp bà già dắt cậu áo bé đen đi.

_____________________

Cửa Tử ( Cửa chết khắc ứng)

Cửa tử nơi đây thật rất hung
Mạng người gặp phải hoạ sau lưng
Xoàng ra phải mất tiền hao của
Còn phải phòng tang tóc chập chùng.

Hỏi rằng: Cửa Tử thuộc Thổ, lại là phương của phần đêm sao hắc, khí Thu Đông, trời Đất tàn sát nặng nề. Từ đó mà đi, cửa hung. Sao hung, nên bỏ đi không dùng. Chả biết cửa này có còn dùng được việc gì không?
Cù Tiên đáp rằng: Cái hung của Cửa Tử là lúc Trời Đất mặc lòng ra oai tàn sát, cỏ mất màu sắc, cây trút rụng lá, cho nên là tượng hung. Nếu được Kỳ đến trợ thì những việc như đánh tội chết, bắt bớ, săn bắn cũng được tốt, đó là thuận theo lẽ trời là thế không bỏ được.

Tĩnh ứng:
Cửa Tử trên Tử, việc quan dăng mắc, ấn tín không có khí, hung.
Trên Kinh, nhân việc quan không lường mà lo ngại. Bệnh hoạn, hung.
Trên Khai, chủ gặp quý nhân, cầu việc văn thư, ấn tín, lợi lắm.
Trên Hưu, chủ việc cầu tài vật không cát. Nếu hỏi cầu ở nơi tăng đạo thì cát.
Trên Sinh, chủ việc tang, cầu tiền được, xem bệnh thì chết rồi lại sống.
Trên Thương, chủ mắc việc quan bị phạt đòn, hung.
Trên Đỗ…
Trên Cảnh, chủ nhân việc văn khế, ấn tín, tài sản, vào quan, trước quan giận, sau quan vui mừng, không hung.
- Trên giáp Mậu, chủ làm của gian.
Trên Ất chủ cầu việc không thành.
Trên Bính, chủ tin tức lo ngại.
Trên Đinh, chủ người dương già tật bệnh.
Trên Kỷ, chủ kiện, bệnh liên miên không dứt, hung.
Trên Canh, chủ người gái sinh đẻ, mẹ con cùng gặp hung.
Trên Tân, chủ trộm cắp,mất mát, không tìm lại được.
Trên Nhâm, chủ kiện người mà thành tự kiện mình, tự chiêu lấy lỗi (chủ tụng nhân tự tụng tự chiêu)
Trên Quý, chủ giá thú, việc đàn bà, hung.

Động ứng:
Cửa Tử ra đi 20 dặm gặp người bệnh, 30 dặm gặp việc tang tóc, đổ máu. Tuy có ba Kỳ cũng không cát. Có Kỳ Bính, gặp người ôm văn thư. Có Kỳ Ất, thấy việc chết chôn, vật quý hoặc giấy tờ. Có Kỳ Đinh, gặp cô gái có tang khóc lóc.
Cửa Tử trên Tử, 2 dặm, 12 dặm, gặp đàn bà khóc lóc, hung.
Cửa Kinh, 7 dặm, 17 dặm, gặp đám tang khóc lóc, hoặc súc vật chết.
Cửa Khai, 6 dặm, 16 dặm, gặp việc đào mã khóc lóc, hoặc súc vật đánh nhau gây thương.
Cửa Hưu, 1 dặm, 11 dặm, gặp người đàn bà áo xanh khóc lóc.
Cửa Sinh, 8 dặm, 18 dặm, gặp người con tang cha cầm con vật sống dẫy dụa.
Cửa Thương, 3 dặm, 13 dặm, gặp người khiêng quan quách.
Cửa Đỗ, 4 dặm, 14 dặm, gặp việc chôn cất, và giấy trát, vật màu sắc.
Trên cảnh, 9 dặm, 19 dặm, gặp người cùng cha mẹ khóc lóc, lui cát tiến hung.
Xem thân mệnh: chủ có hung, mặc tang, bệnh chết. Mệnh Thuỷ Mộc và năm tháng ngày giờ ấy thì rất hung. Còn ngoài ra thì bình.
________________________

Cửa Kinh khắc ứng

Cửa Kinh chủ tranh kiện. Người chết bệnh dịch ôn. Năm Thìn, tháng Hỏa tới, thân mình hoạ đến bên. Duy giấy tờ tranh kiện, bắt bớ, cờ bạc: nên. Ngoài ra thì hung cả. Gặp Kinh là phải kiêng.
Hỏi rằng: Cửa Kinh thuộc Kim, gặp tháng 8 lệnh Thu, muôn vật đều già, Trời Đất ra oai tàn sát muôn vật, cũng nên đó chăng?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Kinh, khí tàn sát, vật loại già cỗi, vốn không khí sống cho nên hung. Nhưng mà trời đất còn long ưa sống (hiền sinh chi tâm), không muốn giết hết mầm tỏi, mầm lúa đông, cũng chẳng đã mà giết. Cửa này tuy hung, mà những việc như trình thơ, dâng kế lừa, bắt bớ, đặt nghi, phục binh đều cát, cũng chẳng nên bỏ.
Tĩnh ứng:
Cửa Kinh trên Kinh, chủ tật bệnh, lo ngại, sợ sệt.
Trên Khai, chủ lo ngại, quan tư, kinh khủng, lại chủ quan trên thấy thì vui mừng, không hung.
Trên Hưu, chủ việc cầu tiền, nhân cãi cọ cầu tiền, việc chậm mà cát.
Trên Sinh, chủ: nhân đàn bà sinh lo sợ, hoặc nhân cầu tiền sinh lo sợ, đều cát.
Trên Thương, chủ bàn nhau cùng mưu hại người, việc tiết lộ kéo đến kiện cáo, hung.
Trên Đỗ, chủ mất mát, phá tài, kinh sợ, không hung.
Trên Cảnh, chủ kiện cáo không dứt, và trẻ nhỏ tật bệnh, hung.
Trên Tử, chủ: nhân trong nhà có quái lạ mà sinh tai tiếng.
- Cửa Kinh trên Giáp Mậu, chủ tốn tiền, tin có trở ngại.
Trên Ất, chủ mưu tiền không được.
Trên Bính, chủ văn thư, ấn tín. Sợ hãi.
Trên Đinh, chủ kiện cáo liên miên.
Trên Kỷ, chủ chó dữ làm thương người thành kiện.
Trên Canh, chủ trên đường dập gẫy, trộm cướp, hung.
Trên Tân, chủ người gái làm kiện, hung.
Trên Nhâm, chủ quan tư, tù giam. Bệnh thì rất hung.
Trên Quý, chủ bị trộm cướp, mất vật, không lấy lại được.

Xem thân mệnh: chủ giấy tờ, kiện cáo, tai nạn, việc quan, cãi cọ, đổ máu. Các việc ấy, ví gặp năm tháng ngày giờ Bính Đinh Tị ngọ, người xem không lợi.

Động ứng:
Cửa Kinh đi ra 30 dặm gặp đàn chim khách kêu, giống nuôi đánh nhau. 40 dặm thấy người bán tranh thì cát. Nếu không thì 70 dặm tất có hung dập gẫy, không thể đi trước được.
Cửa kinh trên Kinh 7 dặm, 17 dặm, gặp 2 gái thúc đẩy người bên bảo đánh. Quan tư.
Trên Khai, 6 dặm, 16 dặm, gặp quan xửngười dưới tranh kiện nhau.
Trên Hưu, 1 dặm, 11 dặm, gặp bà áo xanh nói chuyện về việc quan tư.
Trên Sinh, 8 dặm, 18 dặm, gặp người gái dẫn đồng tử dắt trâu, đứa trẻ cầm vật ăn.
Trên Thương, 3 dặm, 13 dặm, gặp trai gái la lối đánh thằng nhỏ. Nên quay về, nếu cưỡng đi thì xe gẫy ngựa chết, hung.
Trên Đỗ, 4 dặm, 14 dặm, gặp tăng đạo cùng đi hay trai gái cùng bàn luận.
Trên cảnh, 9 dặm, 19 dặm, gặp bà áo mầu nói chhuyện việc quan.
Trên Tử, 2 dặm, 12 dặm, gặp người gái khóc lóc và việc tang chết.
________________

Phép Năm Giả
Cửa Cảnh, hợp Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên gọi là Thiên giả (Trời làm giả). Ất là Thiên Đức. Bính là Thiên Uy. Đinh là Thái Âm. Phàm gặp linh của Ba Kỳ, nên bầy tỏ công việc tiện lợi, tiến lên yết kiến cầu việc, đều rất cát.
Cửa Đỗ, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Địa giả (Đất giả), nên ẩn giấu, mai phục. Ba giờ này nên giấu tích, ẩn hình.
Cửa Thương hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Thái Âm, cũng gọi là Địa Giả, nên sai người làm gián điệp, mưu thám việc tư.
Lại như là cung Lục Hợp, cũng gọi là Địa Giả, nên trốn chạy, tránh lánh nạn.
Cửa Kinh, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Thần Giả , lợi việc chôn cất, ẩn nấp người không biết được.
Cửa Kinh, hợp với Lục Hợp, còn nói hợp với Sáu Nhâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, gọi là Nhân Giả, lợi việc bắt bớ, chạy trốn. Nếu là cách Thái Bạch Nhập Huỳnh Hoặc thì dưới đó tất bắt được.
Cửa Tử, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Quỷ Giả, lợi việc vượt chết, tiến độ. Còn nói tới cung Ba ẩn vượt, tức ba cửa cát ở địa bàn.
Trên đây là 5 phép Giả, tuỳ nghi việc mà dùng.

Phép Ba Trá
Phàm việc nên được ba cửa cát: Khai, Hưu, Sinh, tức không được Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh cũng cát, lại lấy thần âm tương trợ gọi là Ba Trá. Có địa bàn Cửu Địa, Thái Âm,Lục Hợp, ba thần trợ kỳ gọi là cửa Dương được trợ (dương môn đắc trợ), lại được cửa cát ở địa bàn tương trợ thì toàn cát.
Ví 3 cửa cát Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba kỳ Ất, Bính, Đinh, không được Thái Âm, Cửu Địa, Lục Hợp ở địa bàn, gọi là có cửa không Dương, có Kỳ không Âm, mọi việc gặp thì cát 7/10.
Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Thái Âm, lại được cửa cát, cửa cát này cần có sao cát tương trợ, gọi là Chân Trá (Dối đúng), lợi việc thi ân, ẩn trốn, tế, cầu đảo Tiên thì cát.
Khai, Hưu, Sinh hợp Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Lục Hợp, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Hưu Trá (Dối Lành), nên luyện thuốc, cầu đảo, tế thần, cầu giải tai nạn, đều rất cát.
Cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Trọng Trá (Dối nặng), nên thu hàng binh, thêm miệng ăn, nạp tài, tập tước (con cháu kế thừa tước của ông cha), bái thụ (lạy nhậm chức tước), thì đều cát.
Trên đây là cửa Trá, các việc như đi xa, buôn bán, hôn nhân, mọi việc đều rất cát.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 6

Phép 9 độn biến hoá

1/ Ba cửa cát Khai, Hưu, Sinh, trên thiên bàn Kỳ Bính, dưới Địa bàn là Kỳ Đinh, đều gọi là Thiên Độn (Độn trời), được tinh Nguyệt che chở, hoặc dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, cũng gọi là Thiên Độn, có thể giấu vết ẩn hình. Nếu lại có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Xá, Nhật Lộc, Hỷ thần thì trăm việc đều cát. Có Chu Tước lợi việc văn thư, tâu đối. Có Đằng Xà thì chủ nghi hoặc. Có Thanh Long thì sinh tài hỷ. Ví có bạch Hổ, Huyền Vũ thì chủ tật bệnh, mất mát, việc nhỏ không được toàn cát. Nếu luyện tế Đinh Giáp, gọi gió, thay mưa (hô phong hoán vũ), các việc như thế mà dùng Thiên Độn thì có thể toàn cát.
2/ Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp kỳ Ất, dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, Lục Hợp cung, đều gọi là Địa Độn (Độn Đất), được tinh Nhật che chở, có thể đặt phục, mưu làm, trăm việc đều cát. Nếu có Chu tước, nên đặt giấy tờ, làm màu lúa. Có mừng về tiền. Nếu có Bạch Hổ Được khóa cát Địa độn, nên xây dựng, khởi công, chôn cất, giấu diếm, các việc như thế đều rất cát.
3/ Khai, Hưu, Sinh, hợp với Ba kỳ, dưới địa bàn là Lục Hợp, gọi là Nhân Độn (Độn Người), cửa Sinh với Ba kỳ tới cung Thái Âm, và cửa Sinh, Kỳ Ất tới cung Cửu Địa, cũng gọi là Nhân Độn. Có Lộc ngày, Hỷ Thần, và Quý Thần, thì chủ có mừng về tiền, các việc hòa hợp. Có Chu Tước chủ kiện cáo được lý. Có Đằng Xà chủ các việc mộng ác, quỷ mỵ. Có Bạch Hổ kỵ đi thuyền. Có Huyền Vũ chủ có trộm cắp. Nếu có sao Thiên trụ, Thiên Phụ thì chủ mưa. Thiên Xung chủ có sấm. Thiên Ương chủ có chớp. Xem tật bệnh thì chủ nguy cấp.
4/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân mà rơi vào cung Tốn gọi là Phong độn (Độn Gió). Có 2 sao Thiên Xung, Thiên Phụ thì phương ấy có thể tế phong, nhưng không lợi cho việc đi thuyền, tin tức đến. Hành binh thì lợi đánh Hỏa công, thắng lớn.
5/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới là cung Sáu Tân gọi là Vân Độn (Độn mây); cửa Sinh hợp Thiên Nhuế, Nhậm, tới cung Khôn; Ba cửa cát hợp Sáu Tân, tới cung địa bàn, Sáu Ất; hoặc Thiên Nhuế hợp cửa Sinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khôn; cũng có thể gọi là Vân Độn. Tháng Đông nên cầu mây, tháng Hạ nên cầu mưa. Nếu có Bạch Hổ thì chủ có mưa đá, mưa băng. Nếu có Đằng Xà, Chu Tước chủ nắng hạn, câu cưỡng thì chiêu lấy tai hoạ. Hành binh nên đi cướp doanh, kẻ kia không biết trước được.
6/ Khai, Hưu, Sinh hợp sao Thiên Tâm, Giáp Nhâm, Lục Hợp ở cung Khảm là Long Độn (Độn Rồng); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất trên Khôn; hoặc cửa Khai Lục Mậu trên Cửu Địa ở địa bàn; với cửa Hưu, Kỳ Đinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khảm; đều gọi là Long Độn. Phương này cầu mưa tất ứng, đánh thuỷ tất thắng. Lại được các Thần Thanh Long, Huyền Vũ, Thần Hậu, thì chủ mưa dầm, phải phòng kẻ gian tế trộm cắp.
7/ Cửa Khai, Giáp Thân Canh, dưới địa bàn là cung Đoài, là Hổ Độn (Độn Hổ); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân ở cung Cấn, cũng đều gọi là Hổ Độn. Phương ấy nên tế phong, trấn tà, đuổi quỷ, yên nhà, đều cát. Nên đi thuyền, chiêu an, đánh hiểm, siết sào huyệt, lợi khách. Nếu yên doanh, phục binh, không dám nhìn thẳng.
8/ Cửa Khai, hợp Kỳ Ất, hợp sao Thiên Tâm, hoặc sao Thiên Cầm, dưới địa bàn là Cửu Thiên ở cung Kiền, gọi là Thần Độn (Độn Thần); hoặc cửa Sinh, Kỳ Bính hợp hai sao Cầm, Tâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, cũng gọi là Thần Độn. Phương này nên khu thần, sai tướng, thi kế, thần tất trợ ngầm. Hành binh nên làm thần tướng đắp trong ba quân, thần tất lên. Lại nên tế lễ, thần tất về nương. Nếu có Bạch Hổ, Lôi Sát, Kiếp Sát thì chủ sét đánh thương.
9/ Cửa Hưu, Thiên Phụ, Sáu Tân, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, ở cung Cấn, gọi là Quỷ Độn (Độn Quỷ); cửa Sinh, Thái Âm, dưới địa bàn là Kỳ Đinh; hoặc cửa Sinh, Cửu Địa, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, cũng đều gọi là Quỷ độn, nên dò đường, xét xứ giặc, thực hành mưu gian, tung tin đồn, kẻ kia không xét nổi mà lòng quân đâm nghi hoặc. Trong nhà có quỷ, nên thư phù mà trấn thì cát. Các việc khác không lợi.

______________________

Quyết Siêu Thần Tiếp khí (Vượt thần nối khí)

Về Nhuận Kỳ, có quá 9 ngày sau rồi đặt nhuận, có quá 14 ngày mà đặt nhuận, đều có lệ
Đại ước thì khí đến trước, Tiết chưa đến, trước dùng Khí gọi là Siêu thần. Tiết đến trước mà Khí chưa đến gọi là Tiếp khí.
Siêu thần, để như cũ, dùng khí đương cục (nghĩa là vẫn khí cục cũ), mà không dùng Tiết. Đợi Siêu quá 9 ngày thì mới dùng Tiết, gọi là Siêu thần. Tiếp khí tất phải ở trước tháng nhuận. Siêu thần phải ở sau tháng nhuận. Trước tháng nhuận, khí tất đến trước. Sau tháng nhuận, tiết tất đến trước. Khí đến trước tất trước dùng khí. Tiết đến trước thì còn chưa dùng Tiết. Siêu thần Tiếp khí đã chỉ rõ ràng vậy.
Ví năm nhuận vào tháng giêng, 2, 3, 4, thì đặt một hậu khí nhuận ở Đại Tuyết. Năm nhuận vào tháng 5, 6, 7, 8 thì đặt một hậu khí nhuận ở Mang Chủng. Đó gọi là quá còn không kịp (quá do bất cập), không có khí trung hòa mà phải đặt nhuận. Gom lại thì cứ Giáp kỷ của Tý Ngọ Mão Dậu là Thượng Nguyên (nguyên trên), của Dần Thân Tị Hợi là Trung Nguyên (nguyên giữa), của Thìn Tuất Sửu Vị là Hạ Nguyên (nguyên dưới), đó là định lệ.
Lại có nói: Tiết và Khí cũng làm trung hoà. Trước giữa tiết, gặp ngày Giáp Kỷ của Tý Ngọ Mão Dậu, gọi là quá, quá thì phải tiếp khí. Sau giữa tiết thấy Giáp kỷ của Tý Ngọ Mão Dậu gọi là không kịp (bất cập), không kịp thì phải Siêu thần. Tóm lại thì lấy 30 ngày là một tháng (bản nguyên viết là 33, ở đây bỏ số 3 sau). Phải đặt nhuận, chẳng qua đạo Âm Dương nở mòn vậy.

Chương luận: (9 Thần)
Trực phù (phép Tôn) là đầu của các thần (chư thần chi nguyên thủ), là cổ cánh (linh tu) của sao. Vì thế mà gọi là Trực phù. Thể Thần thuộc Hỏa. Nơi nào thần đến thì trăm ác tiêu tan, mọi hung biến hết Là thần rất cát. Có nợ...? Thái bạch kim tinh kỵ vào Mộ. Gặp vậy ở nơi cát thì không cát, ở nơi hung càng hung. Trời khởi từ Giáp, Đất khởi từ Tí cho nên gọi là bậc Tôn của muôn nhóm (vạn vảng: ). Nói lên (cử: ). Giáp Tí là 6 giáp ở trong, cho nên gọi tên là Trực phù.
Cửu Thiên (Chín trời): là Kiền kim.Thể này thuộc kim. Kiền nạp Giáp Nhâm, tính cương mà ưa động. Chủ những việc gọi đúng lời xuôi (danh chính ngôn thuận), gặp đúng lệnh thì không gì trở ngại, là thần rất cát. Nếu được Cửa được Kỳ thì vạn phúc gom vào. Ví không được Kỳ thì cũng không hung. Sợ vào Mộ thì sức yếu đi. Trời bắt đầu từ Giáp, từ Giáp đến Nhâm (bản nguyên viết là Thìn), Số được 9 cho nên gọi là Cửu thiên.
Cửu Địa (Chín đất): là thể Khôn. Thần này ưa tĩnh. Chủ các việc mềm dẻo, kính cẩn bề ngoài, lại nắm quyền sinh sát. Là thần nửa hung, nửa cát. Sợ khắc chế, kỵ vào Mộ. Xuân Hạ thì sinh. Thu Đông thì giết. Giữ quyền hành bà Hậu nội cung vua. Khôn nạp Ất và Quý. Từ Ất đến Quý được số 9 cho nên gọi tên là Cửu địa. Nói đến Ất sửu là có 6 Ất ở trong vậy.
Chu tước (Sẻ non): là thần Hỏa phương nam, quản cỏ khắp đồng ruộng của vùng trời. Nắm giữ quyền văn minh, tấu đối, miệng lưỡi, giữ chức vụ văn thư. Được đất (đắc địa = ở nơi tốt không có trở ngại) thì có mừng về văn thư ấn tín. Không được thời thì tai tiếng cãi cọ, nhiễu loạn, cát hung như vậy. Ngôi ở Bính. Bính nạp Cấn thổ, vượng tướng ở Ly. Ở trời là Thần chim đỏ (Xích Điểu chi thần) thuộc Bính hỏa. Nói đến Bính Dần là có 6 Bính ở trong cho nên gọi là Chu tước.
Đằng xà (rắn vọt): là khí Đinh Hỏa, mà thực ra thì thuộc âm thổ. Đoài nạp ở Đinh Tị. Thần này tính mềm dẻo mà miệng độc. Chuyên giữ các việc sợ hãi, quái lạ, lửa yêu, cổ quái. Ngôi trấn phương Tốn. Còn tên là Ngọc Nữ. Độn can là thần 6 Đinh, 6 Giáp, tức là thần âm rất lệnh. Nói đến Đinh Mão là có sáu Đinh ở trong vậy. (Mục này bản nguyên viết là Câu trận).
Câu trận (móc câu): là Thổ dương ở trung ương. Thần này tính ngoan, ngạnh. Giữ các việc đất cát, kiện cáo. Từ Giáp đến Mậu số được 5. Từ Tí đến Thìn số cũng được 5. Cấn nạp Bính, Khảm nạp Mậu, phối ở Đông nam. Kinh nói: “ Biết ba, tránh năm” là khí hung ác giả dối (hung ngoan chi khí), không nên tới. Ngồi trấn ở Cấn, cho nên gọi tên là Câu trận. (Lánh 5 là 5 can phần Âm: Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và 5 cửa hung là Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh).
Lục hợp (Sáu hợp): là khí hóa của Giáp mộc, là mộc âm ở phần Đông. Thần này tính hòa bình, chuyên giữ các việc về hôn nhân, giao dịch, manh mối, hòa hợp. Làm em gái của sáu Giáp, gả cho Canh kim là vợ. Có thai với Canh, rồi trở về nhà. Ngôi trấn phương Đông. Chấn nạp Canh. Từ Giáp đến Kỷ số được 6 cho nên gọi tên là Lục hợp.
Bạch Hổ (hổ trắng): là Canh kim. Oai thống phương Tây. Thần này ưa giết, chuyên giữ các việc binh qua, sát phạt, tranh đấu, tật bệnh, chết chôn, đường xá. Kỷ nạp ở Canh Kim. Tốn là Phong (gió). Phong theo ngôi Hổ. Trấn ở phương Tây. Từ Giáp đến Canh số được 7 cho nên gọi là Bạch Hổ.
Huyền Vũ (Rùa xám): là tinh của nước. Thống giữ khí phương Bắc. Thần này ưa âm mưu làm hại, chuyên giữ các việc trộm cắp, trốn chạy. Nước thì sắc đen, được đất vàng (hoàng thổ) ở trung ương mà thành cho nên gọi là Huyền Vũ.
Thái âm (Âm cả): là Kim âm phương Tây. Thần này ưa giấu diếm, mờ mịt, che chở, vợ và thiếp, các việc ấy. Ly nạp ở Tân, phối với phương Tây. Ngôi trấn cung Đoài. Đoài là gái nhỏ (thiếu nữ). Âm Dương đến đó thì không nảy nở được nữa. Từ Giáp đến Quý là số hết. Từ Tí đến Dậu khí đó cùng cho nên tên là Thái âm.
Thái Thường (Quá thường): là khí hóa của năm hành. Thần này ưa ca hát, ăn uống, chuyên giữ các việc yến tiệc, tế lễ, áo mũ, dê con, nhạn bay (cao nhạn). Thần này theo Thiên Cầm (chim trời) đi chơi khắp phương. Gặp Hỏa theo Hỏa, gặp Kim lại theo Kim, gặp nước theo nước, gặp Mộc theo mộc, gặp Thổ thì theo Thổ. Hợp với cả 5 thể. Tính thần Không thường, cho nên gọi là Thái thường. Đi với cửa cát thì cát, mà đi với cửa hung lại hung. Chủ mặc màu sắc, mặc tang biến đổi (Câu này không có nghĩa).
Hai mươi bốn khí
Tháng giêng : Lập xuân, Vũ thủy (Dựng xuân, mưa nước).
Tháng hai : Kinh chập, Xuân phân (Trung nở, giữa xuân).
Tháng ba : Thanh minh, Cốc vũ (Trong sáng, mưa thóc).
Tháng tư : Lập hạ, Tiểu mãn (Đang hè, gần tròn).
Tháng năm : Mang chủng, Hạ chí (Lên đồng, đến hè)
Tháng sáu : Tiểu thử, Đại thử (Ấm áp, Bức nóng).
Tháng bảy : Lập thu, Xử thử (Dựng thu, Dịu nắng)
Tháng tám : Bạch lộ, Thu phân (Nóc trắng, giữa thu).
Tháng chin : Hàn lộ, Sương giáng (Móc lạnh, Sương rơi)
Tháng mười : Lập đông, Tiểu tuyết.
Tháng mười một : Đại tuyết, Đông chí.
Tháng mười hai : Tiểu hàn, Đại hàn.

Ngày cát Thiên đức
Giêng Đinh, Hai: không Thân. Ba: Nhâm, Bốn là Tân. Năm: Kiền, Sáu: Giáp ngự. Bảy: Quý, Tám: Cấn lân. Chín: Bính, Mười: tìm Ất. Mười một: Tốn, Cuối: Canh dồn.
Ngày cát Nguyệt đức
Tháng giêng, 5, 9 là Bính. (Hỏa cục nên là Bính)
Tháng 2, 6,10 là Giáp. (Mộc cục nên là Giáp)
Tháng 3, 7, 11 là Nhâm. (Thủy cục nên là Nhâm)
Tháng 4, 8, 12 là Canh. (kim cục nên là Canh)

Phép Năm Phù (Ngũ Phù Pháp)

Ngũ Phù thuộc thần cát, nên đến yết người Quý.
Thiên tào thuộc kim, giữ việc giấy tờ kiện cáo.
Địa Phù nửa cát, nửa hung, thuộc Thổ, chủ úp, lánh.
Phong bá, Lôi công, thuộc Mộc chủ kinh khủng.
Vũ sư, dương thuỷ, chủ mưa, trời đen, hoặc cuồng phong, mưa bụi (âm vũ).
Phong vân thuộc âm Mộc chủ trời râm )bán âm.
Cam phù ( còn gọi là Đường phù) thuộc kim chủ về tiền, cát.
Quốc ấn thuộc kim, chủ thăng lên.
Thiên luân thuộc Mộc, chủ trở cách.
Địa tặc thuộc âm thổ chủ lật lọng, phản phúc.
Thiên tặc, âm thủy chủ mất trộm.
Trên đây dùng Tướng tháng (Nguyệt tướng) gia trên giờ xem, đi thuận đến Lộc của ngày xem thì khởi Ngũ phù. Như ngày Giáp thì Lộc ở Dần, thì đến Dần khởi Ngũ phù, Mão là Thiên tào, Thìn là Địa phù, Tị là Phong Bá, Ngọ là Lôi công, cứ như vậy mà suy. (Cần tham khảo thêm Lục Nhâm để hiểu hơn).

Hoàng ân sát (yêu ơn vua)

Tháng 1-5-9 (Dần, Ngọ, Tuất-Hỏa cục) ở Tuất.
Tháng 2-6-10 (Hợi, Mão, Mùi, Mộc cục) ở Sửu.
Tháng 3-7-11 (Thân, Tý, Thìn, thủy cục) ở Thìn.
Tháng 4-8-12 (Tỵ, Dậu, Sửu, kim cục) ở Mùi.

Nguyệt Yểm sát (Yêu tháng chìm)

Tháng giêng tại Tuất, rồi nghịch hành tháng 2 tại Dậu, tháng 3 tại Thân, tháng tư tại Mùi, tháng 5 tại Ngọ, cứ thế mà suy.
Xung nhau là đối, không dùng được.

Bài ca Hồng Phạm Ngũ hành (Số mục quái)

Xem can chi mà biết được số lượng bao nhiêu người, bao nhiêu vật, bao nhiêu thời gian...gọi là số mục quái.
Giáp, Kỷ, Tý, Ngọ thuộc số 9
Ất, Canh, Sửu, Mùi thuộc số 8.
Bính, Tân, Dần, Thân thuộc số 7.
Đinh, Nhâm, Mão, Dậu thuộc số 6.
Mậu, Quý, Thìn, Tuất thuộc số 5.
Tỵ, Hợi thuộc số 4.
Ca rằng:
Kích đạo, Bạch đạo và Hoàng đạo,
Không tránh ngàn năm nghiệm chẳng hay.
Ngoài ba Đạo ấy là thần cát.
Thêm Cửa Kỳ vào tốt lắm thay.
Phép quyết ẩn lánh trong 2 Độn, tất chưa thành đạo (.....). Trong phép Độn Đạo thì Kích, Bạch, Hoàng ba đạo nên tránh cẩn thận. Nếu không, tuy có hợp 3 Kỳ, cửa cát cũng không thông, khó tránh hoạn.











Hình đồ 9 Đạo, 8 tiết.




Hình đồ nơi tên của Người Thần sáu Giáp trên trời.
Đây là 5 giờ Dương: Giáp ất Bính, Đinh, Mậu, là giờ Thần tại Trời, cần biết. Giờ âm cũng theo như đây.
(Vòng ngoài cùng tức vòng thứ 5. hai thần Bạch hổ, Huyền vũ, thì bản nguyên viết là Câu trận, chu tước. Vòng thứ 2, hai cửa Khai, Hưu thì bản nguyên viết là Hưu, Khai).



KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 7

Luận về Chủ Khách xem nghiệm

Luận rằng: Kỳ Cửa mà ứng, có trước sau, có Chủ Khách, lấy Đó Đây, lấy Người Ta mà suy.
Nét chính thì Thần Kỳ ứng việc lúc Sơ. Sao ứng việc vào khoảng giữa. Cửa ứng việc lúc cuối. Theo thứ tự như thế mà suy thì rõ, không thể không ứng nghiệm như thần.
Như Ta đi tìm người thì Ta là Khách, Người là Chủ. Lấy Sao trên Thiên bàn là Ta, Sao dưới Địa bàn là người. Như người đến tìm ta thì Người là Khách và Ta là Chủ. Lấy Sao trên Thiên bàn là Người và Sao dưới Địa bàn là Ta.
Lại nên xem Người đến sinh ta hay ta đi sinh Người. Người sinh ta thì ích cho Ta. Ta sinh Người thì ích cho Người. Người khắc Ta thì tổn thất thuộc về Ta. Ta khắc người thì tổn thất thuộc về Người.
Lại lấy ngày Âm sao Thiên bàn là Ta. Ngày Dương sao Địa bàn là Ta, tỷ hòa nhau thì không có tổn ích. Nên theo đấy mà suy.
Kỳ môn nói: có Dương không Dương, Đức lộc vào cửa. Không Dương nửa cát. Có Dương vui mừng.
Thần Dương này là chỉ cửa Trực Sử bay. Giờ ấy gặp được Kỳ Đinh tức là Thần Dương được trợ. Như Giáp Tý Trực phù thì Đinh Mão là Thần Dương. Giáp Tuất Trực phù thì Đinh Sửu là Thần Dương.

Kỳ môn xem việc – 27 điều.

Án mục bài ca Quý nhân ở Kỳ môn cũng giống như ỏ Lục Nhâm. Chỉ cần sau Đông chí được Quý Âm, sau Hạ chí dùng Quý Dương là không dùng trong Kỳ môn. (câu này nói về cách an Quý nhân Quẻ Năm của Lục Nhâm thì không dùng trong Kỳ Môn).
Bàn trên tượng Trời (chỉ 9 sao hay Tinh), bàn giữa tượng về người (nói 8 cửa), Bàn dưới tượng Đất (chỉ 9 cung). Bàn trên là Sao (Tinh), bàn giữa là Cửa (Môn), bàn dưới là Cung.
Phép dùng:
Khi xem cát hung, đầu tiên là xem nặng về 9 Sao, vì Sao thì ở Thiên bàn, cát hung thì do thiên bàn đã định sẵn. Sao (Tinh) khắc Môn thì cát, Môn khắc sao thì hung.
Khi ra đi hoặc tới, lánh thì nên xem nặng về 8 Cửa, vì 8 Cửa là Bàn Người (Nhân bàn), cát hung thì do người tự chiêm lấy. Thấy Môn khắc Cung thì cát. Cung khắc Môn thì hung, vì làm thương Người cho nên hung vậy.
Khi xây dựng, chôn cất, rời đổi, thì xem nặng về 9 Cung. Lấy 9 Cung là Địa bàn, các việc rời đổi, đều theo Địa mà khởi. Cho nên Môn Cung sinh nhau thì đều cát, khắc nhau thì đều hung. Đều lấy ý như trên mà suy thì những việc về Trời Người, không gì là không thấy suốt. Ở đây bảo cho người biết cách mà dùng.
Truyền rằng: Kỳ môn đã chia 3 bàn (Thiên, Nhân, Địa). Trên dưới 6 bàn đều có 1 can, cung giữa địa bàn có kỳ nghi. (chú ý: Câu trên đây dịch đúng theo nguyên bản, nghe ra cũng lủng củng lắm. Vậy nên thích nghĩa như sau: Kỳ môn đã chia thành 3 bàn. Trên dưới 6 cung đều có 6 can (tức Lục Nghi), trên dưới 3 cung đều có 1 kỳ (tức Tam Kỳ). (Câu này muốn nói đến Lục nghi – Tam Kỳ thiên bàn và địa bàn).
Sánh hợp trên và dưới (xem xét trên dưới), xem có thành cách hay không thành cách gì, thì hiển nhiên là biết. Như Giáp trên Bính, Ất trên Tân.v.v.v. Duy dưới sao chủ trong Môn bay đều ngầm dấu 1 can là phép Trực Sử trên Chi giờ.
Lại giữa đầu Trực phù khởi số đến Can giờ thì ngừng, tức là từ Giáp đến Ất, đến ....Quý. Để cầu Chi giờ, thì trong 8 môn cũng có 1 can, gọi là Can bay (Phi can). Can này không lộ ra ngoài cục diện, mà ở số ngoài bàn trên dưới của Chi giờ. Giờ thì dùng Giáp Ất... bày ra mà được, cho nên gọi ngầm dấu, như ẩn như hiện, biến hóa không cùng, cổ kim nay không một biết vậy.
Giả như trong Môn bay (tức 8 Cửa, bàn giữa) trước có Sao chủ. Trong Môn bay chợt có Canh bay tới (Giáp này câu chi giờ, Giáp Ất Ta bay lại, không lộ dấu vết) thì trăm việc, mặt ngoài tuy thấy đẹp đẽ, đầy đủ, mà trong thì thật là chật vật.
Lại như Môn bay đã khắc Sao chủ, mọi việc xem đều thấy hung lắm, mà trong Môn bay chợt có Kỳ bay tới (tức Can bay Ất, Bính, Đinh), thì trăm việc, ngoài mặt tuy hung, mà thực ra ở trong được ngầm nhiều. Sách nói như ẩn như hiện, như có như không là nói về Can bay vậy.

Đồ hình Thiên Nhân Địa tam bàn:
Ví dụ: ngày Ất Hợi, giờ Bính Tý, Hạ nguyên Tiết Đại thử Âm độn 4 cục.
Mậu 4 Tân 1 Ất 5
Kỷ 3 Nhâm 9 Bính 6
Canh 2 Quý 8 Đinh 7
Ta có Sao Thiên Xung và Thương môn. Giờ Bính Tý thì Thiên Xung gia Bính 6 cung, Thương môn gia Khảm 1 cung.
Thiên Trụ (Đinh)
Tử (Canh)
Tốn (Mậu) Thiên Tâm(Bính)
Kinh (Đinh)
Ly (Nhâm) Thiên Bồng (Tân)
Khai (Bính)
Khôn (Canh)
Thiên nhuế (Canh)
Cảnh (Nhâm)
Chấn (kỷ)
Ất Thiên Nhậm(Quý- Ất)
Hưu (Tân)
Đoài (Đinh)
Thiên Anh (Nhâm)
Đỗ (Mậu)
Cấn (Quý) Thiên Phụ (Mậu)
Thương (can bay Kỷ)
Khảm (Tân) Thiên Xung (Kỷ)
Sinh (ất-Quý)
Càn (Bính)



Quẻ này Phương Đông có Canh gia Kỷ là Hình cách. Phương Tây Có Quý gia Đinh là Xà Yêu Kiều. Tại Khảm 1 có Thiên phụ và Thương môn tương tỷ lại được địa bàn khảm thuỷ sinh nên cát.





1. Xem đầu quân (đi lính).
Lấy Thiên Xung là võ sĩ, Trực phù là chủ soái. Cung Trực phù sinh cung Thiên Xung, hoặc cung Thiên Xung sinh cung Trực phù thì mới thấy là vào hợp. Nếu hai bên khắc nhau thì không được thu dùng. Thiên Xung mà làm Trực phù thì một đi là làm bộ trưởng, sau tất đại dụng. Phục ngâm thì trở về ngay. Phản ngâm thì phản phúc không chuẩn.

2. Xem công thành (đánh thành).
Lấy 6 Canh là công, lấy Thiên Cầm là thủ (nguyên pháp nói: Canh là chúng quân, Cầm là công vào trung ương, cho nên chịu bị công).
Như 6 Canh được khí vượng tướng, được cửa Khai gia vào cung 5 giữa (cung 5 ở giữa cũng có Môn đi qua mà không ký ở đấy) thì thành tất bị phá.
Lại xem ở Địa bàn, cung Thiên Cầm đến đâu. Nếu vượng tướng được cửa cát thì tướng giữ thành không thể bắt nổi. Trái thế thì chết.

3.Xem giữ thành
Lấy Thiên Cầm là thủ, Thiên bồng Sáu Canh là công. Cung Thiên Cầm được các cửa Hưu, Sinh, Khai, Cảnh lại vượng tướng, có sáu Bính: thành ấy không phá nổi. Nếu không vượng tướng và cửa cát, lại phạm Thiên Bồng, Lục Canh, phạm cung giữa thì không giữ nổi.

4. Xem giặc cướp (đạo tặc)
Binh địch đi lại, trước chia giới hạn. Từ Đông chí về sau lấy Khảm, Cấn, Chấn, Tốn làm trong. Ly, Khôn, Đoài, Kiền 4 cung là không đến.
Cung có 6 Canh bị khắc là đóng doanh không ổn, tự sợ hãi mà lui. Sáu Canh khắc cung Canh đến, lại gặp Huyền vũ, Thiên Bồng, Bạch hổ các thần ấy tất đại chiến. Canh được Cửu thiên thiìđại trương thanh thế, thúc trống mà tiến. Canh được Cửu địa thì nên cuốn cờ im trống mà đi.
Như giặc đã vào Cảnh, xem bao giờ đi. Thấy Sáu Canh ở 4 cung trong thì không đi, ở ngoài 4 cung là đi. Gom lại, lấy 6 Canh địa bàn, Can Chi Năm Tháng Ngày Giờ làm kyỳđi lại. Canh trên Năm (Năm là phương cát) mà có cách Thái bạch nhập huỳnh thì tuy giặc có lại, nhưng ở ngoài giới (ngoài 4 cung) cũng chủ không lại. Huỳnh nhập Thái bạch, tuy chủ giặc đi, mà ở trong giới thì cũng không đi.

5. Xem thành trong cảnh giặc có giữ được không?
Lấy cung Can giờ là Khách, cung Chi giờ là Chủ (tức cung phù, Sử) xem sinh khắc ra sao?
Như cung Chi giờ địa bàn bị cung có Trực phù khắc chế, mà Chi giờ lại có 6 Canh, Huyền vũ thì thành này nên bỏ. Hoặc cung Trực sử tự bị dưới khắc, thành này cũng không thể ở, nên mau tránh lui.
Như cung Trực phù và cung Trực sử sinh nhau, hòa nhau hoặc cung Trực phù tự bị hình khắc thì kẻ địch 3 lần lại đều không thể đánh thắng, giữ thành không ngại.

6. Xem được thua.
Phàm chiến trận, lấy 2 cửa: Cảnh, Kinh làm chủ.
Kinh nói: cửa Cảnh nên phá trận và phép trị loạn. Cần thấy cửa Kinh được Trực phù tới cung làm chủ. Cung sáu Canh tới làm Khách. Cung Trực phù khắc cung sáu Canh thì Chủ thắng. Cung sáu Canh khắc cung Trực phù thì Khách thắng.
Lại luận vượng tướng là thắng, hưu tù là bại.
Như Chủ được hai cửa Kinh, Cảnh hoặc cung của 2 cửa cùng với cung Khách sinh nhau thì Khách thắng.
Như cung Chủ Khách sinh nhau tất có giảng hòa.
Như cung Chủ Khách đều vượng tướng, đều được 2 cửa, không hình khắc nhau, thì sức ngang nhau, hai bên cùng sợ không đánh mà lui.
Như sáu Canh là trực phù, thế là Chủ Khách cùng cung, 2 bên không chia thắng bại.
Lại Can ngày trên Canh là Chủ thắng, Canh trên Can ngày là Khách thắng.

Như khí Cốc vũ, thượng nguyên, dương độn, 5 cục, ngày Bính, Tân, giờ Nhâm Thìn. Thiên trụ là Trực phù trên có sáu Canh chủ hai bên không chia thắng bại, tự cùng rút tránh.

Ất Canh (Phù)
Nhâm

Đinh

Bính

Mậu
Canh


Tân

Quý
Kỷ
Kinh (Sử)


Lời người dịch: Khí Cốc vũ, sau Đông chí, trước hạ chí thì phải là độn dương chứ không phải là độn âm như bản nguyên viết. Ở đây, người dịch xin hoạch khóa này cho bạn đọc trông thấy rõ.
Giờ Nhâm Thìn thuộc phù đầu Tuần giáp Thân Canh, vậy là Canh Giáp Thân Thiên Trụ Trực phù bay trên sáu Nhâm tại cung Cảnh. Kinh môn Trực sử bay trên sáu Kỷ ở cung Khai, bản nguyên viết Thiên trụ Trực phù trên có sáu Canh thì không đúng. Trên có sáu Quý, không phải sáu Canh. Nên nói dưới có sáu Canh thì đúng.

7. Xem về tin xa
Lấy cửa Cảnh là tin. Kinh nói: trên Cảnh dâng thơ và phá trận.
Cửa Cảnh tới ngoài giới thì tin đến chậm, tới trong giới thì tin đến nhanh. Trên có cách cát thì tin cát, cách hung thì tin hung. Những cách môn bách (cửa bị bách ép), lao sông (Chu tước đầu giang) đều không có tin.

8.Xem Xế lớn cát hung.
Lấy Trực phù là Sứ hộ, cửa Khai là sao quan, cung của cửa Khai bị cung của Trực phù khắc chế, lại hưu tù phế một và không có sao cát, cách cát chủ bị đòi hỏi. Vượng Tướng thì chủ bị bãi chức. Được sao cát thì giáng cấp.
Cửa Khai không bị cung Trực phù khắc chế, lại còn sinh nhau nữa thì không việc gì.

9.Xem bản văn được phê sớm hay muộn.
Cung sáu Đinh và cung Trực sử sinh nhau thì sớm, khắc nhau thì muộn.
Lại xem sáu Đinh tới đâu, lấy Can Chi ngày xem mà định ngày lĩnh phê.

10.Xem quan mới đến nhận chức tính nết thế nào, người ở đâu.
Lấy cửa Khai là sao Quan. 9 sao là tâm tính, Can trời là phận dã (can thiên bàn).
Như cửa Khai trên có Sao cát là người tốt, Sao hung là người ác.
Thiên phụ thì tâm tính văn minh. Thiên Nhậm thì nhân từ. Thiên Tâm thì lòng thiện, ngay thẳng. Thiên Cầm thì trung hậu. Thiên Xung thì rắn ác. Thiên Ương thì oanh liệt. Thiên nhuế thì thâm độc. Thiên Trụ thì gian quỷ đại ác.
Giáp là dân hán. Ất là dân hải ngoại và Đông di. Bính là Sở. Đinh là Đại, Giang hoài nam. Mậu, Kỷ là Hàn, Nguỵ, Trung châu, Hà tế. Canh là Tần. Tân là Hoa. Nhâm là Yên, Triệu. Quý là Thường, Hung.

11.Xem quan sai phái hoãn cấp.
Lấy Can giờ là ta, Can ngày là Quan trưởng. Sáu Đinh là công văn. Trực sử là công sai.
Nếu cung Trực phù khắc cung Thiên ất (án Thiên ất này là Can giờ, Can giờ trên trời là Thiên ất), mà Sáu Đinh tới đất trong giới thì việc sai chậm hoãn.
Như cung Trực phù khắc cung Thiên ất, mà Trực sử tới đất ngoài thì việc sai gấp.
Lại có kích hình tới thì ý chí ác, ba kỳ đến thì thiện. Nếu sinh nhau thì công sai và quan trưởng gặp nhau vui vẻ, khắc nhau thì thấy giận.
Lại xem sáu Canh là ngục trời (thiên ngục), nếu tới cung hưu tù thì đi lần thứ 2 là phải kết, vượng tướng thì không thể kết.

12. Xem rời đổi cát hung.
Lấy 9 sao, 9 cung chia phương hướng định xem có thể được hay không.
Như phương ấy trên có ba Kỳ, cửa cát, lại được Thiên cầm, 4 tháng Quý đều cát. Được Thiên Phụ: Xuân Hạ đại cát. Được Thiên Tâm: Thu Đông lợi lớn. Còn các sao khác đều không lợi.
Đầu lấy giờ lại mà xem, xét sao nào là Thiên ất mà định. Sau đấy lấy giờ người lại xem mà phát xem. Không giống như giờ bói toán trong Lục nhâm.

13.Xem chim sẻ kêu.
Lấy Chu tước làm chủ.
Xét Chu tước tới Kỳ nào, Môn nào để quyết việc.
Như cửa Khai được Kỳ thì chủ có thân bằng đến, hoặc người đi xa về, hoặc chủ có rượu thịt (ở đây đều lấy cửa Khai mà đoán. Nhân bàn để đoán việc về người, đây đưa ra một phương mà thôi).
Cửa Hưu được Kỳ chủ có việc mừng (Hưu là mừng), tin mừng và việc hôn nhân.
Cửa Sinh được Kỳ chủ việc được ruộng vườn, sản nghiệp, của cải, lợn súc (đều cầm phép đoán cửa Sinh).
Nếu không được ba cửa cát và Môn bách, Kỳ mộ thì đều chủ không có quan hệ gì.
Cần xem cửa Cảnh được cách cát thì có tin lo lắng hoặc có buồn phiền nhỏ.

14.Xem thăng lên (thăng thiên)
Khi đến nhậm chức đã lâu ngày, chưa được cất nhắc, muốn biết thời điểm nào được thăng, nên lấy cửa Khai mà quyết. Nhân vì cửa Khai là Quan giữ việc phát ấn. Môn trên cung sinh vượng, lại được ba Kỳ, Đức hợp, cách cát. Lại được Năm Tháng (Tuế, Nguyệt kiến) có cát thần đến sinh thì tất là được cất nhắc lên cao.
Được cách cát mà không vượng tướng, cách cát mà Năm tháng không đến sinh nhau thì cũng không được cất nhắc.

15. Xem thi hương, thi hội.
Lấy Can ngày là sĩ tử, Trực phù là Tổng tài, Thiên Ất (tức Trực sử, đây chỉ vào người quý mà nói, không phải là Trực phù. Nghi tức Lục nhâm gọi là buông rèm) là giám khảo (phòng sư). Sáu Đinh là văn chương.
Cung Trực phù khắc cung Can ngày, thầy tòa (tòa sư) không lấy. Cung Thiên Ất khắc cung Can ngày, thày phòng (phòng sư) không tiến.
Cung sáu Đinh khắc cung Can ngày, Can ngày khắc cung sáu Đinh, cùng là sáu Đinh hưu tù phế một, đều chủ đề mục rất khó, văn chương sai ý.
Như cung Trực phù, cung Thiên Ất đến sinh cung Can ngày, cung sáu Đinh cũng được vượng tướng thì tất trúng, khuyết một thì không trúng. Khó khăn là cách này phải toàn vẹn thì cầu được, đó cũng là chí lý. Trong Lục nhâm cũng dùng phép này suy.

16. Xem bệnh ngày nào khỏi.
Lấy Can ngày của người bệnh làm chủ (ngày trong 3 chữ), lấy Thiên nhuế là thần bệnh. Lấy 2 cửa Sinh Tử làm sống chết.
Như Can ngày tới cửa Sinh thì sống, không chết (chỗ này bản nguyên viết: nhật can lạc tại môn Sinh chủ bất tử. Đúng ra phải viết: Nhật can lạc tại Sinh môn, sinh, bất tử)( đều dùng chữ thiên bàn). Được cửa Tử thì không khỏi. Lại gặp Can ngày hưu tù, được sao hung, cách hung thì chắc chết.
Còn sáu cửa khác thì chủ mê man. Lấy ngày Thiên nhuế gặp phế một là kỳ khỏi.
Xem con gái (nhi nữ) bệnh mà Can Giờ vào Mộ cũng chết.

17. Xem đến yết (Can yết).
Xem đến yết chuyên xét cửa Hưu. Lấy phận cung Cửa Hưu là người đến gặp (như Thiên bàn Hưu trên Chấn thì Chấn là bản cung) cung Can Giờ là người đi (Can Giờ trời đến đến trên Khảm địa bàn là loại thuỷ).
Cung cửa Hưu sinh cung Can Giờ, mà cung Can Giờ lại có 3 Kỳ tới thì được vừa ý. Nếu khắc chế nhau, lại không có ba Kỳ thì không được gặp, hoặc không vui vẻ mà điều cần không được vừa ý.
Lại cần hai cung vượng tướng, nếu một cung không tốt thì không cát.
Nếu phương đến gặp được cửa Hưu tới cũng được gặp.

18. Xem lùng bắt (bổ tróc).
Lấy Lục hợp là người trốn. Lấy cửa Thương là người đi bắt (toàn lấy 8 cửa làm chủ, vì 8 cửa là Nhân bàn chủ việc về người).
Như cung Lục hợp (nói Lục hợp Thiên bàn tới 1 cung ở địa bàn. Sau đây hễ nói đến cung thì theo lệ này). Khắc cung cửa Thương thì không thể bắt được. Trái thế thì dễ bắt.
Cửa Thương sinh cung Lục hợp thì người đi bắt không ra sức thực tất là do nhận hối lộ.
Cửa Thương Lục hợp cùng cung thì hai bên thông đồng nhau. Gặp cách Niên Nguyệt Nhật Thời thì có thể bắt được. Thiên cương thấp cũng vậy.

19. Xem hôn nhân.
Lấy Sáu Ất là Nữ, Sáu Canh là Nam, lấy nghĩa ở chuyện Giáp đem em gái là Ất gả cho Canh.
Như cung Ất và Canh tới, cùng sinh nhau hợp nhau thì thành. Hai bên khắc nhau thì không thành (như địa bàn Tý Mão hình nhau).
Lại lấy Lục hợp trời là người mối. Như cung Lục hợp sinh cung Lục ất thì người mối hướng về nhà Nữ. Sinh cung Sáu Canh thì người mối hướng về nhà Nam.
Cung Sáu Canh khắc cung Sáu Ất thì nhà gái sợ nhà trai mà không gả. Cung Sáu Ất khắc cung sáu Canh thì nhà trai hiền mà nhà gái không lấy.
Cung Sáu Ất có kích hình thì người gái hung ác, có Đức hợp thì tính người gái hiền hòa.
Cung Sáu Canh có thần hung thì tính người nam bạo liệt, có Đức hợp thì tính hiền hậu.

20. Xem chạy mất.
Lấy Can giờ là chủ mất (trong Lục nhâm dung can ngày cũng cùng một lý). Lục hợp là vật bị mất. Nên lấy cung tới luận. Lại lấy cung Lục hợp và cung Can giờ xét xem ở trong hay ngoài để chia xa gần.
Như Can ngày Lục hợp đều ở trong thì dễ tìm, đều ở ngoài thì khó tìm. Lục hợp ở ngoài, Can ngày ở trong thì khó tìm.
Lại lấy cung có Lục hợp làm phương hướng. Như được sao vượng tướng, lại tới 4 cửa Khai, Hưu, Sinh, Đỗ thì không thể tìm được. Trái thế thì được.
Gặp Cửu địa, Thái âm (bản nguyên viết là Thái Dương) thì có người đem giấu. Gặp Cửu Thiên thì chạy xa. Gặp Huyền vũ thì bị người lấy cắp đem đi. Gặp Đằng xà có người trói buộc. Gặp Chu tước được tin tức. Gặp Câu trận có người buộc dắt đi (trên đây chỉ sự gặp như trong Lục nhâm).
Lại xem Sáu Canh, gặp Niên cách thì trong năm tìm thấy, Nguyệt cách thì trong tháng tìm thấy, Nhật cách thì trong ngày tìm thấy, Thời cách thì trong giờ thấy.

21. Xem vay mượn.
Lấy Trực phù là người chủ vật. Thiên Ất (tức Trực sử, đều phỏng đây suy ra) là người đi vay. Đều dung cung tới sinh khắc mà luận.
Cung Trực phù sinh cung Thiên Ất, cung Thiên Ất khắc cung Trực phù thì vay mượn được. Cung Trực phù khắc cung Thiên Ất, cung Thiên Ất sinh cung Trực phù thì không vay được.

22. Xem thi võ.
Lấy Trực phù làm chủ khảo, Can giờ là người đi thi. Giáp Thân Canh là số lẻ (cơ). Giáp Ngọ Tân là hồng tâm, cửa Cảnh là mũi tên mà luận.
Chuyên xét cung tới của Giáp Thân Canh, nếu khắc cung Giáp Ngọ Tân hoặc xung cung, đều là tên vào hồng tâm.
Lại xem cửa Cảnh, được vượng tướng, lại cùng cung Trực phù sinh nhau, chủ trúng. Khuyết một thì mũi tên không trúng.

23. Xem cầu tiến.
Nên chia Hưu Dụng. Lấy cung cửa Sinh tới là Hưu. Sao trên cửa Sinh làm dụng, Dụng sinh Hưu thì cát. Hưu sinh Dụng thì không cát.
Dụng vượng Hưu suy, Hưu tuy khắc Dụng không cát lắm.
Hưu vượng, Dụng suy. Dụng tuy khắc Hưu cũng không quá hại.
Đại để, xét cung mà cửa tới mà phân. Lại xét trên dưới ba bàn, cách cục cát hung như thế nào. Tinh cát, Sao cát thì điều cầu vừa ý. Có một không cát, chỉ cầu được nửa. Hưu Dụng không cát, điều cầu hoàn toàn không được.

24. Xem chủ thuyền thiện ác.
Lấy Chấn cung 3 là chủ thuyền, lấy sao trên thiên bàn mà định thiện ác của chủ thuyền.
Trên cung Chấn được ba sao: Phụ Tâm Cầm thì rất cát. Sao Xung, Nhậm thì trung cát, nhà thuyền này thực là người tốt. Được Ương Nhuế, Trụ, Bồng thì rất hung, không nên lên thuyền đó.

25. Xem người ra ngoài có yên không.
Trước định phương hướng. Xét thấy phương ấy, 2 bàn trên dưới được Ba kỳ, Môn cát (hai bàn trời đất đều có kỳ môn) và các cách cát thì yên, trái thế không yên.

26. Xem hỏi bạn.
Khi dùng việc trong kỳ môn, chuyên chọn phương hướng và giờ. Như ta muốn hỏi bạn, tìm người, lấy phương đi tới ở địa bàn làm chủ, thiên bàn là khách. Chủ khách cần sinh hợp nhau, lại được môn cát, cách cát thì tất cùng rời đi. Nếu Môn hung, trên dưới hai bàn lại khắc chế nhau thì không rời. Canh làm cách Niên, Nguyệt, Nhật, Thời, gặp thế thì cũng không rời.

27. Xem tuyết.
Lấy 2 cung Kiền Đoài làm chủ. Cung Thiên tâm tức Kiền. Sao Thiên Tâm gặp 2 Can Nhâm Quý và tới cung Đoài. Hoặc sao Thiên Trụ gặp 2 can Nhâm Quý và tới cung Kiền đều chủ có tuyết. Lấy can ở cung tới được của địa bàn định kỳ có tuyết.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 8

Hoặc có người, có vật, có động tĩnh thì lấy sao ở phương ấy vào cung. Lại lấy đúng giờ ấy xem Môn gì vào Trung cung để định Người. Lại xem ở Bản cung của Trung cung có sao nào, Môn nào đem điền thực, hoặc lấy các loại quan quỷ, phụ mẫu, huynh đệ, tử tôn, thê thiếp mà suy. Thấy cung điền thực sinh bản cung, bản sao thì có ích. Khắc cung Trung, cung bản, sao bản thì có tổn nên tránh.
Tức lấy Can giờ bầy trên cung trung, độn dương đi thuận, độn Âm đi nghịch xem phương nào có Kỳ, có Môn thì lánh về phương ấy.

1.Xem đi xa định kỳ về.

Phép này lấy Trường sinh ở bên góc mà quyết. Xem ngày ra đi thuộc Can nào. Tìm ở 4 góc xem Trường sinh của Can là gì. Lấy Can ở dưới địa bàn của cung ấy mà làm ngày về.

2.Đi xa xem ở nhà có yên không.

Phép này chuyên lấy 4 góc mà quyết. Bốn góc là phương của 4 Trường sinh. Ví như ngày Giáp Ất thì xét cung Kiền. Đó là cung của 4 Trường sinh lớn. Thấy được Môn, được Kỳ, được cách cát thì cát, cách hung đều hung.

3.Xem cầu người cất nhắc
Phép này dùng Giáp Tý Mậu là người đi cầu tiến. Lấy Thiên Ất là người cất nhắc. Thấy cung Thiên Ất sinh cung Giáp Tý Mậu và cung Trực phù thì chắc được cất nhắc. Nếu trái thế thì không được.
4.Xem tờ kiện cát hung.
Phép này dùng hai cửa Kinh, Cảnh làm chủ.
Khi xem giấy tờ kiện cáo, xét cửa Kinh được vượng tướng thì kiện không dứt. Cửa Cảnh cũng vậy. Nếu 2 cửa vào Mộ hay vào cung Không vong thì kiện không thành.

5.Xem mộng cát hung.
Phép này chuyên lấy Đằng xà trên thiên bàn Môn nghi gì với dưới địa bàn môn Nghi gì. Hợp Môn cát, cách cát thì mộng cát, gặp cách hung thì hung. Nếu dưới địa bàn là không vong, Mộ khố thì không có cát hung.

6.Xem chim chóc kêu nhộn
Phép này chuyên lấy sao Thiên cầm tới cung, thấy Can gì mà quyết. Nếu Thiên Cầm tới cung địa bàn, được Kỳ môn, cách cát thì cát, cách hung thì hung. Đều lấy 3 cửa mà phối, cát hung tự nghiệm.

7.Xem là yêu quái gì.
Chuyên dùng Đằng xà tới cung gặp Môn, Sao mà quyết. Nếu như Đằng xà tới cung Khảm là quái nước, thần nước. Tới cung Cấn là quái đá, tinh núi. Tới cung Chấn là quái gỗ, hồ ly. Tới cung Tốn là yêu hoa, Rồng, rắn. Tới cung Ly là quái lửa, quái chim, quái rùa, rắn. Tới Khôn là bà già, trâu dê, vàng bạc sinh lâu thành tinh. Tới Kiền là quái cho, dê, lợn và vật bằng đồng, sắt, các thứ đồ dùng làm quái. Nếu không được Kỳ môn cách cát, gặp cách hung thì có thể chết chóc, tang cha mẹ, các hung kiện cáo quan tư. Nếu tới cung gặp Không vong thì không ngại.

8.Xem tránh nạn.
Chuyên dùng cửa Đỗ mà quyết. Xe mcửa Đỗ bay tới phương nào thì nên lánh về phương ấy. Lại xem phương ấy là Can gì. Thấy Mậu là người quý lẩn tránh..
Nếu cửa Đỗ có 3 Kỳ thì đi mới không có cách trở gì, cát lắm. Nếu thấy Canh thì nên ôm gỗ mà đi mới khỏi hung tai. Thấy Tân là Ngục trời, Nhâm là lao đất thì không thể thoát. Nếu cửa Đỗ tới địa bàn là Quý, là cách Thiên cương (lưới trời) ở 2 cung chấn tốn có thể dùng khúc gỗ 3-4 thước mà yểm để trốn. Ở 2 cung Kiền Đoài có thể ngồi xổm xuống mà qua. Phương trốn ở 2 cung Cấn Ly, lưới cao 8-9 thước thì kiễng chân lên mà đi.
Nếu cửa Đỗ ở 2 cung Chấn Tốn là lưới trời thấp cửa thì không thể trốn thoát.
Ví cửa Đỗ tới 2 cung Kiền Đoài, Mộc bị Kim khắc tuy có trốn được mà sau cũng bị bắt được. Nếu có 3 Kỳ, cách cát tới cung Can ngày thì có cứu.

9.Xem vào núi hỏi đạo.
Lấy Thiên Nhuế là người đi hỏi đạo. Thiên Phụ là người truyền đạo.
Nếu Thiên phụ được Kỳ môn, cách cát đến sinh Thiên nhuế thì được bậc cao minh truyền dạy. Tỷ hòa mà Không vong thì gặp người không truyền đạo. Khắc nhau thì không gặp người.
Suy ra ngày Dương thì gặp các bậc tăng đạo truyền đạo. Ngày Âm là vũ sĩ truyền đạo.

10.Xem nên sai khiến người nào đi.
Chuyên dùng cửa Khai, sao Thiên Xung và Can Mệnh của bọn chúng là Can năm gì, Can ngày gì. Năm mạng bị cửa Khai xung thì sai đi được. Không xung thì không nên sai.

11.Xem thôi việc.
Lấy cửa Khai là quan trưởng. Lấy Can ngày là người xin thôi việc.
Nếu cửa Khai sinh Can ngày thì quan trưởng có tình luyến tiếc mà không chuẩn cho thôi. Cửa Khai mà khắc Can ngày thì đồng ý cho lui nhưng giận trách. Tỷ hòa cũng chuẩn cho lui. (Mọi việc đếu lấy lý ở ngoài đời mà suy).
Lại thấy Can ngày có cách Thanh long đào tẩu (Rồng xanh chạy trốn), Huỳnh nhập Bạch thì tất lui.
Nếu gặp cách Bạch nhập huỳnh, Hổ xương cuồng thì không thể lui. Gặp cách Đằng xà yêu kiều thì chủ về sợ hãi, muốn lui không thể được.
Nếu gặp Hỏa cách và Chu tước đầu giang thì không những cho lui mà còn bị trách phạt.

12.Xem xin việc.
Lấy cửa Khai làm quan đang nhậm chức. Lấy Can ngày làm người xin việc.
Nếu thấy cung Can ngày được khí vượng tướng, lại được Kỳ Môn cách cát, mà cửa Khai được được Kỳ Nghi cách cát đến sinh Can ngày thì tất được quan trưởng trọng dụng phát đạt. Nếu Can ngày không được vượng tướng, Kỳ nghi cách cát (chứng tỏ người xin việc cũng không có năng lực) nhưng được cửa Khai sinh Can ngày thì người đi xin việc cũng được nhận, cũng khá tốt.
Nếu Can ngày cửa Khai hai bên xung khắc nhau chứng tỏ hai bên gặp mặt đều không thích nhau mà không làm.

13.Xem mua người.
Lấy Trực phù làm người mua đầy tớ. Lấy cung Thiên nhuế tới làm kẻ đầy tớ.
Thấy cung Thiên nhuế sinh Trực phù thì người tớ ấy ích cho chủ. Nếu tỷ hòa nhau thì không kính thuận nghe lời. Khắc Trực phù thì hay cãi lại, phản chủ.
Có Huyễn vũ, Thiên Bồng thì có tính trộm cắp. Cách Thanh long đào tẩu thì hay trốn mất, bỏ việc. Cách Đằng xà yêu kiều thì hay ốm đau bệnh tật, chết.
Gặp cách Bạch nhập Huỳnh, Hổ xương cuồng mà khắc cung Trực phù thì giết chủ, rất hung.
Gặp cách Ngọc nữ thủ môn thì dâm loạn, làm ô uế chủ.
Gặp cách Huỳnh nhập Bạch thì lười biếng, ngu dốt
Ngoài ra phỏng thế mà suy.

14.Xem mở quán.
Lấy Thiên Phụ làm người cần mở quán. Lấy Giáp Tý Mậu, cửa Khai làm quan trưởng.
Nếu cửa khai mà có 3 Kỳ, cách cát đến sinh cung Thiên Phụ thì chủ các quan có tiếng đến thăm. Vì cung Giáp Tý Mậu, cửa Khai chủ về người quý, học tiến. Ví cửa Khai không được vượng tướng, 3 Kỳ thì chủ các quan nhỏ đến thăm. Cùng tỷ hòa thì chủ và tân khách hợp ý. Khắc chế nhau, phản nhau thì chủ khách không hòa. Ví tThiên phụ vào Mộ thì chủ quán gặp hung. Cửa Khai vào Mộ thì khách gặp hung hoặc khách hay giận dữ, vào Không vong thì sau không thành quán.

15.Xem quán sách.
Lấy Thiên phụ là sư trưởng. Thiên nhuế là đệ tử.
Nếu cung có Thiên nhuế sinh cung có Thiên phụ thì chư đệ tử đến thăm sư trưởng. Cung có Thiên phụ sinh cung có Thiên nhuế thì sư trưởng đến với đệ tử hoặc đồ đệ cũ.
Thiên phụ khắc cung thiên nhuế thì sư trưởng hiềm đệ tử. Thiên nhuế khắc Thiên phụ thì đệ tử hiềm sư trưởng. Nếu thiên nhuế có khí vượng tướng lại được Kỳ môn cách cát tất là quán đông. Nếu Thiên nhuế không được Kỳ môn cách cát, không được vượng tướng tất ít người. Phụ Nhuế gặp Phản ngâm, chủ nửa đường phải bỏ. Thiên nhuế vào Không vong, Mộ khố thì không thành quán. Ngoài ra phỏng thế.

16.Xem hỏi người.
Lấy thiên bàn phương đi tới là ta. Cung địa bàn là Người. Thiên Địa 2 bàn tỷ hòa nhau thì tất gặp. Lại được Kỳ môn cách cát, với Can ở 2 bàn trên dưới hợp nhau, đều có rượu thịt. Nếu khắc nhau thì 2 bên không tương đắc mà không gặp. Như tới sao và Can vào Mộ thì người có nhà mà không cho gặp. Như cung địa bàn mà Không vong thì đúng là người không có nhà.

17.Xem người đến hỏi.
Lấy Tinh thiên bàn ở phương người tới là người đến hỏi, là Khách. Cung Địa bàn là Chủ, là ta.
Thiên bàn được Kỳ môn đến sinh cung Địa bàn là khách quý,có ích cho ta nên có thể gặp. Nếu Tinh thiên bàn khắc cung địa bàn, lại gặp cửa hung, cách hung thì người hại cho ta, không nên gặp.

18.Xem tin tức hư thực.
Lấy cửa Cảnh, Chu tước làm tin tức mà quyết. Nếu cửa Cảnh được vượng tướng khí, lại có 3 Kỳ là tin thật. Cửa Cảnh hưu tù, không được 3 Kỳ, lại có Chu tước là tin không thật, không nên nghe. Cửa Cảnh gặp Không vong, Mộ khố lại có Chu tước là lời nói trên đường hoặc lời đơm đặt không tin được.

19.Xem ra đi đường thủy hay bộ cát hung.
Lấy cung của 2 cửa Hưu Cảnh tới mà chia 2 lối thủy bộ. Cửa Hưu rơi vào Không, hợp 2 bàn trời đất có 3 kỳ thì đường thủy cát. Cửa Cảnh có 3 Kỳ thì đường bộ cát.
Đi thuyền thì kỵ cách Thanh long đào tẩu, Bạch hổ xương cuồng là cách hung, chủ có gió bão, cách Đằng xà yêu kiều chủ có hung tai. Cách Chu tước đầu giang chủ đắm thuyền, lại lấy cửa Thương làm thuyền. Cửa thương trên cửa Hưu là nổi, là thuận. Cửa Hưu trên cửa Thương là thuyền trôi đầy nước, chủ đắm thuyền.
Cửa Cảnh là đường bộ, cũng lấy cửa Thương là ngựa, là xe. Kỵ cách Thái bạch nhập huỳnh chủ về mất trộm. Cách Huỳnh nhập Thái Bạch chủ lửa cháy. Huyền vũ, Thiên Bồng chủ mất trộm.
Đường thủy kỵ cửa Kinh đến khắc, sợ thuyền bị thương, cửa Cấn thì không lợi có nước, mắc cạn.
Đường Bộ mà cửa Hưu trên Ly thì bùn lầy khó đi. Nếu 1 cửa vào Mộ thì chủ cầu quán cách trở, đường đi khó khăn.

20.Xem ra đi.
Lấy cung Can ngày tới là người ra đi để mưu làm việc. Đi lên phương nào, thấy phương ấy có cửa cát, cách cát đến sinh cung Can ngày thì ra đi được lợi lớn.
Hoặc không được Kỳ môn, cách cát đến sinh mà cùng Can ngày tỷ hòa nhau cũng có lợi. Trái thế thì không lợi.
Lại bị cửa hung, cách hung đến xung khắc Can ngày thì rất hung. Nếu tới phương Không vong, vào Mộ hoặc Can ngày, Niên Mệnh gặp phương Hình, Mộ, Không vong cũng không lợi.

21.Xem tội nặng nhẹ
Lấy Giáp Ngọ Tân là người có tội, Cửa Khai là quan hỏi. Nếu cung của cửa Khai sinh cung của Giáp Ngọ Tân thì quan hỏi tội thương mà không thêm tội. Cùng tỷ hòa thì tội nhẹ. Cùng xung khắc mà gặp cách hung thì tất là tội nặng.
Nếu Giáp Ngọ Tân mà gặp Không vong, được Kỳ môn cách cát cùng cứu thì tội được tha.

22.Xem tù cầm.
Lấy Giáp Ngọ là người có tội, Tân là Ngục trời. Nhâm là Lao đất. Quý là lưới trời (Thiên cương).
Xem cung có Can ngày mà dưới là Giáp Ngọ chủ bị cầm hung. Cung Giáp Ngọ Tân, dưới địa bàn là Nhâm Quý là lâm vào lao trời, đợi đến ngày xung phá thì ra. Nếu Can Nhâm Quý trên Thiên bàn mà dưới địa bàn là Giáp Ngọ Tân là vó lưới trùm đầu, chủ bị cầm hung.
Lại như Sao Nghi trên trời tới cung địa bàn là Mộ khố và Nhâm Quý thì suốt đời không thoát tù ngục, đợi làm quỷ trong tù vậy. Nếu tới cung Không vong thì là không ngục, không bị cầm tù.

23.Xem việc quan.
Lấy Giáp Nhâm Đằng xà mà suy.
Cung Trực phù dưới thấy Giáp Thìn Nhâm, Đằng xà chủ bên nguyên dây dưa nhiều người. Cung có Ất kỳ, dưới là Giáp Thìn Nhâm và có Đằng xà chủ bên bị dây dưa nhiều người. Cung cửa Khai, dưới là Giáp Thìn Nhâm Đằng xa thì chủ quan hỏi tội chuyên nhiều người. Giáp thìn Nhâm Đằng xà vào cung Không vong thì không dây dưa nhiều người. Nếu thấy Đại cách (Canh gia Quý) thì buông tha, không ngại.

24.Xem có bị trách phạt không.
Lấy cách Canh mà quyết.
Cung Canh Kim đến khắc cung Trực phù thì nguyên cáo bị trách. Khắc cung kỳ Ất thì bị cáo bị trách. Khắc cung Lục hợp thì người làm chứng bị trách.
Nếu Canh Kim vào Mộ và tới Không vong thì quan giận không quở trách.

25.Xem tờ trạng.
Lấy cửa Cảnh, Chu tước là tờ trạng. Cửa Khai là quan trưởng. Như 2 cửa Cảnh, Kinh có khí vượng tướng lại có 3 Kỳ cách cát chủ lời lẽ khẩn thiết, không bị cửa Khai xung khắc thì được chuẩn. Hai cửa Kinh, Cảnh không được Kỳ Nghi cách cát, lại cùng cửa Khai xung khắc thì chủ quan giận mà không chuẩn, trái lại là chịu tội phạt.
Nếu 2 cửa Kinh Cảnh vào Mộ thì chủ lời lẽ trong đơn không rõ nên không chuẩn. Hai cửa Kinh Cảnh tới Không vong thì ném đơn không chuẩn.
Cửa Khai vào Mộ và tới Không vong thì quan không động tình mà không chuẩn.

26.Xem quan phó thác.
Lấy cửa Khai là quan hỏi cung. Trực phù là nguyên cáo. Kỳ Ất là bị cáo.
Cung Trực phù sinh cung cửa Khai chủ nguyên cáo có gửi. Kỳ Ất cũng vậy. Hai cung mà bị cửa Khai xung khắc thì bỏ giao phó, quan không chuẩn.

27.Xem việc quan có cứng lý không.
Lấy cung cửa Khai tới là quan hỏi cung. Cung Trực phù tới là nguyên cáo. Cung kỳ Ất tới là bị cáo. Cung Lục hợp tới là người làm chứng.
Cung cửa Khai sinh cung Trực phù thì quan hướng về nguyên cáo. Sinh Ất cũng cùng lẽ. Sinh cung Lục hợp thì chủ nghe lời chứng. Tóm lại thì sinh nhau là cứng lý, khắc nhau là đuối lý.
Cửa Khai vào Mộ thì quan hỏi cung hồ đồ, xét hỏi không rõ ràng. Cửa Khai vào Không vong thì không hỏi. Phản ngâm thì đổi quan khác hỏi.

28.Xem đơn kiện
Lấy Trực phù là nguyên cáo. Sao địa bàn ở cung mà Trực phù tới là bị cáo. Sao Thiên bàn khắc sao Địa bàn thì nguyên cáo thắng. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn thì bị cáo thắng.

29.Xem bệnh khỏi.
Lấy cung Thiên nhuế là bệnh chứng, thấy khắc Can chi. Ở cung tới là kỳ khỏi. Như Giáp Ất mộc khắc Mậu Kỷ thổ vậy.

30.Xem mời thầy thuốc.
Lấy sao Thiên tâm là thầy thuốc. Lại lấy Kỳ Ất là thầy thuốc.
Cung mà 2 thần tới có Kỳ môn, cách cát là lương y. Hai thần tới cung vượng tướng, không gặp Kỳ môn cách cát là thầy bình thường, không được khí vượng tướng và Kỳ môn cách cát là thầy tồi. Không luận thầy hay hoặc thầy tồi nhưng có thể khắc cung Thiên nhuế thần bệnh thì chữa chạy có công hiệu. Nếu cung thần bệnh tới khắc 2 cung 2 thần tới thì tuy thầy hay cũng không thể chữa khỏi.

31.Xem là chứng bệnh gì.
Lấy cung Thiên Nhuế tới mà quyết. Lại lấy phép đội 9 dẫm 1 xem là bệnh gì.
Tới cung Ly là bệnh ở đầu, mắt, ở bên trong là bệnh ở tâm. Ở bệnh là bệnh hỏa.
Tới Khôn là bệnh ở bụng, ở trong là bệnh tại Vị (dạ dày), ở bệnh là cổ trướng, ở ngoài là bệnh ngoài da, lại là vai phải, tai phải, ở bệnh là sang nhọt.
Tới Đoài là Yết hầu, hung cách, phế. Ở trong là ho hắng, não, suyễn thở, ngọng ngịu. Ở ngoài là miệng răng, trán, góc sườn bên hữu. Ở bệnh là bí.
Tới Kiền là đùi chân, cũng là đầu. Ở trong là Đại tràng, ở bệnh thì trong là bàng quang, đái khó, ủng kết. Ngoài thì là đùi, chân, gân cốt đau nhức, lại là sang nhọt.
Tới Khảm ở trong là tiểu trường, thận khí, đan điền. Ở bệnh là hàn, là di tinh, là đi tả, đi đái đầm đìa, tiện bế, hoặc rượu chè năm lâu mà bụng đau. Ở ngoài là thận. Ở bệnh là âm hư, nhọt ngún, sán khí (tức là bệnh ở bộ máy sinh dục)
Tới Cấn là bệnh ở Tỳ, bệnh trong là hư trướng. Ở ngoài là đùi chân, cước khí (bệnh nhức trong ống chân). Ở bệnh là phong thấp, tê liệt, cũng là nhọt.
Tới Chấn, ở trong là Can Đởm. Ở ngoài là sườn bên tả. Bệnh ở trong là huyết hư, là chứng lao, thổ huyết, ngủ mệt, kinh sợ nói cuồng. Bệnh ngoài mắt mù, tai điếc và da dẻ hủi cùi, nhọt đau, các tật về bong gân, xương sống.
Tới Tốn, ở trong là Dạ dày, miệng, cao hoang, lại là bệnh đởm. Ở trong thì trúng phong không nói được, can phế cũng thương, tam tiêu hư viêm, cảm thương phong nhiệt, suyễn thở. Ở ngoài là tai trái, vai trái, sườn trái, lại là gân. Bệnh ngoài thì chân tay phù nóng, bốn chi không sức, là tật hỏa, là tật cân tê (gân nhẹ xốp).
Lại lấy cung Thiên nhuế tới xem là can gì mà nghiệm, hàn nhiệt, hư thực xét rõ tiết khí, mùa lệnh làm nghiệm đích, đừng để sơ sót làm cười cho người. Kẻ học giả nên cẩn thận. (Phần này cần tham khảo thêm tượng tám quẻ dịch cơ bản và tham khảo thêm đông y).

32.Xem bệnh cát hung.
Lấy cung Thiên nhuế tới là bệnh. Lấy 2 cửa Sinh Tử mà suy. Thiên nhuế được cửa Sinh thì sống, được cửa Tử thì chết.
Lại xem sao Thiên nhuế. Thấy tới 2 cung Kiền Đoài là vượng, không trị được. Tới cung Ly, cung 5 giữa thì bệnh giằng dai. Tới 2 cung Chấn tốn thì thần bệnh bị khắc chủ về không thuốc cũng khỏi. Tới cung Khảm là hưu tù, bệnh tuy có mê man còn có thuốc trị.
Bệnh mới mà tới Không vong thì khỏi, sống. Bệnh lâu ngày mà rơi vào Không vong thì chết.
Lại xét Can ngày, có khí tù tử, có thần hung, cách hung, hoặc không được Kỳ môn thì cũng chết.
Ví cung mà Thiên nhuế tới, có thần hung, cách hung, cung Can ngày tuy được khí vượng tướng mà bị Thiên nhuế đến xung khắc Niên mệnh thì cũng chết.
Lại xét Niên mệnh người bệnh, xem Can ngày là gì, nếu thấy nhập Mộ cũng chết.
Cù tiên nói rằng: cửa Tử trên cửa Sinh, xem bệnh là chết rồi lại sống.
Mậu 4 Tân 7 Ất 3
Kỷ 5 Nhâm 8 Bính 2
Canh 6 Quý 9 Đinh 1

Xung-Ất Phụ-Mậu Anh-Quý
Đỗ-Thiên Cảnh-Phù Tử-Xà
Mậu Quý Bính
Nhậm-Nhâm Nhuế-Bính
Thương-Địa Kỷ Kinh-Âm
Ất Tân
Bồng-Đinh Tâm-Canh Trụ-Tân
Sinh-Vũ Hưu-Hổ Khai-Hợp
Nhâm Đinh Canh

VD: Có người hỏi Cha bị bệnh đã lâu, người cha Tuổi Tân Mùi (1931). Ngày hỏi: Ngày Kỷ Mùi (20/03/2008 DL, 15h40), giờ Nhâm Thân, tháng Ất Mão, Kinh chập, hạ nguyên dương độn 4 cục. Người cha mất vào ngày 8/06/2008DL lúc 5 h 20, tức ngày Kỷ Mão, tháng Mậu Ngọ, năm Mậu Tý, giờ Đinh Mão. (VD: lấy ở trang thế giới vô hình).
Đầu tiên xét Can ngày Kỷ Mùi tháng Mão gặp Tử khí là hung. Thần bệnh Thiên nhuế gia Can năm người cha là bệnh hợp chặt vào người bệnh, mặt khác Thiên nhuế gia vào cung Đoài là Thiên nhuế vượng cho nên bệnh nặng không trị được. Tại Đoài cũng có Kinh môn và sao Thái âm gia vào, nếu hỏi về bệnh đều là cách hung, tại Đoài cũng có Bính gia Tân, Bính Tân hợp Chủ về bệnh hợp chặt với người bệnh.
Tại Chi Mùi có Can Quý, Thiên Anh, và Tử môn cũng chủ về thể trạng người này cũng không còn chịu được nữa .
Vậy phải xét xem tới khi nào thì chết.
Tháng này thì Trực phù Thiên phụ được vượng khí, chờ đến khi gặp Tuần thủ có sao Trực ban (Trụ, Tâm) bị Tử khí nào khắc Thiên phụ thì sẽ chết, tháng 4, tháng 5 là tháng hỏa vượng tất Thiên tâm và Thiên Trụ gặp tử khí, tìm đến ngày Thiên Tâm và Thiên trụ trực ban sẽ biết ngày chết, giờ chết.
Khi xem cần xét cả hai phía: Tinh thần và thân thể để định kỳ sống chết.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 9

33.Xem mất vật.
Lấy cung Can ngày tới là Chủ mất. Can giờ tới là vật mất, đều lấy loài mà suy.
Thấy cung Can giờ được khí vượng tướng đến sinh Can ngày, lại được Phản ngâm thì được. Tới cung Không vong, Mộ, Tuyệt thì không được.
Kiền là khóa vàng, vật báu, khóa sắt, vật tròn, lại là mũ đội, là ngựa.
Khảm là thủy tinh trân châu, bút mực, lông tóc, vật nhỏ mềm, lại cũng là lợn.
Cấn là ngọc đá núi, đồ đá, vải che đèn, lại là trâu, chó, mèo.
Chấn là xe, thuyền, đồ mộc sắc biếc, vật may quần áo, lại là La, là Lừa.
Tốn là tơ lụa đoạn vải, vật mềm mại, lại là nhiều màu, vật nhỏ dài thành từng đôi.
Ly là văn minh, bản đồ, sách viết tay, ấn tín, quyển văn, chim nhiều màu, áo lông chim ấm. Lại là ngựa.
Khôn là đồng, sắt, khánh, trống, vật bằng kim khí rỗng lại có tiếng, ngà voi, là trâu dê.
Đoài là đồ trang sức bằng vàng bạc, có miệng lồng vào cổ tay. Lại là dê, gà, chim bay. Nếu thấy có khí là vật sống, không có khí là vật chết.

34.Xem người nào lấy cắp.
Lấy Bồng đầu là chủ trộm. Có khí vượng tướng, lại được Kỳ môn, cách cát, là người sang trọng lấy trộm. Không có khí vượng tướng, không được Kỳ môn, cách cát thì bọn tiểu nhân làm trộm.
Cũng phối quái mà quyết. Kiền là ông già. Chấn là trưởng xã. Khảm là trai thứ mới lớn khỏe. Cấn là trai nhỏ tuổi còn bé. Khôn là bà già. Tốn là gái trưởng. Ly là gái nhỡ. Đoài là gái nhỏ. Ở trong là thân cận. Ở ngoài là kẻ khác.

35.Xem bắt trộm cướp.
Đoạt người lấy của gọi là trộm đạo. Giết người cướp của gọi là tặc cướp.
Lấy Thiên bồng là đại tặc, Huyền vũ là tiểu tặc. Câu trận là người đi bắt trộm. Cửa Đỗ là phương bắt được. Đều lấy Thiên bàn làm chủ.
Cung Câu trận khắc cung Huyền vũ, Thiên bồng thì bắt được. Ví 2 cung Bồng, Huyền khắc cung Câu trận thì bọn trộm mạnh, người bắt không dám bắt. Cung Bồng Huyền và cung Câu trận tỷ hòa nhau thì người đi bắt trộm thông đồng với kẻ trộm. Cung Câu trận, Bồng Huyền cùng cung thì người đi bắt chính là trộm. Cung Bồng Huyền sinh cung Câu trận thì người đi bắt nhận hối lộ mà tha.
Đều lấy cách Canh lâm chủ. Gặp Niên cách thì trong năm bắt được. Gặp Nguyệt cách thì trong tháng bắt được. Nhật cách thì bắt được trong ngày. Thời cách thì trong giờ bắt được. Không cách thì không bắt được. Cửa Đỗ có cách cũng bắt được, không có cách thì không bắt được.

36.Khơi tìm dòng nước.
Lấy cửa Khai là chủ. Cửa Khai có khí Vượng tướng, lại được ba Kỳ thì khơi dòng có ích, thuận lợi, không có hại. Nếu cửa Khai gặp Phản ngâm, vào Mộ thì không nên khơi. Ví lại gặp Thái bạch cách hung và Giáp Thìn Nhâm thì sau có hại lớn.

37.Xem nước sông lên xuống.
Lấy Thiên Bồng, cửa Hưu mà quyết.
Cửa Hưu có khí Vượng Tướng mà được ba kỳ thì nước tuy dấy lên nhưng chưa đến nỗi tràn trề. Cửa Hưu có khí Vượng Tướng mà gặp cách Canh, chủ nước sông bị ủng tắc, dâng lên tràn trề. Lại có Giáp Thìn Nhâm, Đằng xà chủ nghiệt long vũ thủy (Rồng nghiệt đùa nước) làm hại.
Cửa Hưu rơi vào cung 2,5,8 Thủy bị Thổ khắc thì nước rút nhanh hoặc không có nước. Cửa Hưu không gặp cách Canh, với Giáp Thìn Nhâm thì nước tuy lên mạnh, nhưng không tràn bờ.

38.Xem gieo trồng mùa lúa.
Lấy 9 sao gặp cửa gì, lấy loại mà suy.
Gặp khí vượng tướng lại được ba Kỳ Cửa cát thì lấy: Cửa Khai Thiên tâm là lúa mỳ. Cửa Thương Thiên xung là lúa nếp hương. Cửa Đỗ Thiên Phụ là lúa nếp hạt to và tròn, lại là hoa bông vải. Cửa Cảnh Thiên ương là kê. Cửa Hưu Thiên bồng là đậu. Cửa Tử Thiên nhuế là lúa kiều mạch, lại cũng là tỏi.
Các cửa, các sao được khí vượng tướng, có ba Kỳ cách cát thì thu được to. Được khí vượng tướng, không được Ba kỳ cách cát thì thu kém. Trong 9 sao có bị khắc hoặc Không vong, vào Mộ mà được cách hung thì hỏng, không nên trồng nữa.

39.Xem mời khách.
Lấy Trực phù là khách, Thiên ất là chủ.
Cung có Thiên ất đến sinh cung có Trực phù thì tất là có đến. Can giờ sinh Can ngày cũng có đến. Sao Thiên bàn sinh sao Địa bàn cũng có đến. Trái thế thì không đến.

40.Xem tuyển phi.
Lấy Trực phù là quan được sai. Can năm là Thiên tử, Thiên trụ là gái trinh.
Can ngày Niên Mệnh của gái trinh được Trực phù sinh thì quan được sai xét trúng tất được tuyển. Thiên trụ được Trực phù sinh cũng được tuyển.
Nếu cung của Trực phù đến khắc cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh hoặc cung mà Thiên trụ tới là thì không được tuyển.

41.Xem sau khi được tuyển thì ra sao.
Lấy cung có Can Năm và cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh đến hợp với cung Thiên trụ mà xem.
Cung Can Năm đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh, và cung Thiên trụ thì được Thiên tử vui mừng yêu mến.
Nếu cung Giáp Tý Mậu đến sinh Can Ngày Niên Mệnh và cung Thiên trụ thì rồi sau thành vương phi. Quý nhân khắc cung Niên Mệnh, Thiên trụ thì Thiên tử không vui, phải nên dãi bầy.

42.Xem dẫn người triều cận.
Lấy cung cửa Hưu, Can Năm, Can Ngày Niên Mệnh mà quyết.
Can năm là Thiên tử, Can Ngày là người dẫn triều kiến, Can Ngày Niên Mệnh được Can Năm đến sinh, lại có Ba kỳ cùng phù thì toàn tốt. (Can Năm sinh can Ngày là bề trên đã tin dùng người tiến cử, Can Năm sinh Can Niên Mệnh là bề trên gặp mặt đã thích người được tiến dẫn). (mọi việc cứ thế mà suy).
Lại có cung cửa Hưu được Kỳ Nghi tới thì dẫn đến Thiên tử tất vui mà được mến chuộng.
Như Can Năm không đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh, cũng không khắc chế, mà cửa Hưu được Kỳ đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh cũng tốt. (Cửa Hưu là cửa tốt, lợi về việc yết kiến quý nhân, nay đến sinh Can ngày tất cuộc gặp đó được Quý nhân yêu mến).
Nếu Can Năm đến khắc Can Ngày Niên Mệnh, lại vào Không vong, Mộ, Phế, cùng là cửa Hưu không được Kỳ Nghi cách cát thì không lợi.

43.Xem mồ mả.
Đất mồ mả là nơi người chết ở, lành thì được phúc, hung thì có họa. Bởi vì linh hồn tổ tiên ở nơi Suối vàng mà yên thì con cháu hưng vượng, không yên thì con cháu bại vong.
Nếu chưa táng mà xem trước thì phép này chuyên trách cứ vào cửa Tử và sao ở 2 bàn Thiên Địa mà quyết.
Lấy Sao Địa bàn ở cung cửa Tử là người chết, Sao thiên bàn ở cung cửa Tử là người sống. Cung cửa tử có ba kỳ cùng với sao Địa bàn sinh nhau, hòa nhau, không khắc chế nhau thì người chết yên. Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn, sao Thiên bàn được Ba kỳ thì người còn người mất đều yên lành, sau rồi hưng vượng.
Ví cung cửa Tử cùng với sao Địa bàn cung khắc nhau thì người sống, người chết đều không yên. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn, không có Kỳ môn hộ trì thì người sống người chết đều hung, cửa Tử phản ngâm thì rời đi nơi khác sẽ cát. Cửa Tử gặp Không vong thì đất không có khí, sơ nhà báu người chết.
Lại lấy Can gì, thần gì, cách gì mà suy. Được sao cát, can cát, sinh vượng thì cát. Thần hung, cách hung, can khắc chế thì hung.(Đây là nói sao Thiên bàn. Đáng ngờ là nói sao của 2 bàn trên dưới. Vậy nên đợi gặp bậc cao minh mà hỏi).

44.Xem sáu giống nuôi chạy mất.
La, lừa, thuyền xe thì lấy cửa Thương làm chủ. Trâu dê thì lấy cửa Tử làm chủ. Xem đến nơi nào trên thiên bàn thì đi về phương ấy mà tìm. Ngựa thì lấy sao ở cung Kiền, Đoài làm chủ. Nếu được sao Thiên Bồng thì nên đi đến xứ gần nước mà tìm. Như có Huyền vũ là người lấy trộm đem đi. Ngày tìm được phải được cách Canh.

45.Xem văn võ lên chức.
Phép lấy 2 cửa Khai, Đỗ làm chủ. Quan văn thì xem cửa Khai. Quan võ thì xem cửa Đỗ.
Hai cửa có Ba kỳ, lại được vượng tướng sinh nhau, sinh can Ngày Niên Mệnh thì tất được thăng chức. Thái tuế lâm sinh Can Ngày Niên Mệnh tất là có Thiên tử đặc chỉ. Trực phù lên sinh là Ty trên bảo cử. Nguyệt kiến đến sinh can Ngày Niên Mệnh và cửa Khai là bộ thân bảo cử. Cửa Khai lại được vượng tướng sinh nhau thì lên chức nhanh. Được cửa, không được Kỳ cũng thăng. Được Kỳ, không được Cửa thì chỉ được gia hàn chứ không được thăng.

46.Xem giáng chức.
Cửa Khai bị khắc, quan văn giáng chức. Cửa Đỗ bị khắc, quan võ giáng chức. Phản ngâm thì chuyển đi nhận nơi khác. Không vong thì tất bị cách chức. Vào Mộ không những bị giáng phạt mà còn bị tội lỗi nữa.Thái tuế đến khắc thì Thiên tử không vui. Trực phù đến khắc thì Ty trên bắt tội. Can Tháng đến khắc thì bộ thần bắt tội.
Như thấy Huyễn vũ là án trộm cắp. Bạch hổ là án mạng. Chu tước là Ấn tín. Đằng xà là chịu trách phạt. Thái âm thì bãi chức. Lục hợp, Câu trận là bị bắt.
Nếu 2 cửa Khai Đỗ vượng tướng sinh nhau với cung, hoặc được Ba kỳ, cách cát thì tuy có bị bắt bẻ mà không ngại.

47.Xem cầu quan.
Lấy cung cửa Khai và cung Can Ngày Niên Mệnh mà quyết.
Cung cửa Khai sinh cung Can Ngày Niên Mệnh, lại được ba Kỳ, cửa cát, cách cát thì được quan phải nhanh. Không được Ba kỳ, cửa cát, cách cát thì được quan chậm. Gặp Phản ngâm thì không được.

48.Xem đi nhận chức phương nào.
Lấy thiên bàn cửa Khai tới cung mà quyết. Cửa Khai tới 4 cung trong thì gần, tới 4 cung ngoài tất đi xa. Độn dương từ Khảm đến Tốn là trong, từ Ly đến Kiền là ngoài. Độn Âm thì ngược lại.
Lại lấy Can ở địa bàn mà chia ra thành 9 châu: Giáp là Tề, Ất là Đông di, Bính là Sở, Đinh là Nam man, Mậu là Hàn Ngụy, Kỷ là Trung Châu, Canh là Tần, Tân là Tấn, Nhâm là Yên, Quý là Bắc dịch.
Tý là Tề, Sửu là Ngô, Việt. Dần là Yên. Mão là Tống. Thìn là Trịnh, Hàm đan. Tỵ là Sở. Ngọ là Chu. Mùi là Tần. Thân là Tấn. Dậu là Triệu. Tuất là Lỗ. Hợi là Vệ.
Thấy Huyền vũ thì dân ấy nhiều trộm cắp. Thấy Bạch hổ chủ hay đánh nhau gây thương tích. Thấy Chu tước thì hay kiện cáo. Thấy Đằng xà thì nhiều điều quái lạ. Thấy Thái âm thì hay gian dâm.
Thiên ẤT, Thanh long, Lục hợp là nơi có lễ nghi, phong tục tốt. Câu trận thì lắm tranh nhau về đất cát.

49.Xem đồng sinh thi.
Lấy sao Thiên phụ là quan hỏi thi, Kỳ Đinh là văn chương. Can ngày là đồng sinh.
Kỳ Đinh có Cửa (Môn) đến sinh Can Ngày Niên Mệnh, hợp môn cát, cách cát mà được Thiên phụ đến sinh tất đậu cao. Hoặc Can Ngày Niên Mệnh, Kỳ Đinh hợp Môn cát, cách cát, không được Thiên phụ đến sinh cũng được đậu. Kỳ Đinh, can ngày Niên Mệnh không được Môn cát, cách cát mà có Thiên phụ đến sinh thì là văn hiến thi ân, không vì văn chương hay dở mà cũng được lấy đậu.
Ví Phản ngâm, Phục ngâm, vào Mộ là có chép lại văn cũ, không được lấy đậu. Rơi vào Không vong thì văn làm chưa xong.
Kinh Thương 2 cửa là quyển văn bị cắt xén. Cửa hưu có thần hung, cách hung xung khắc can ngày Niên Mệnh thì là văn chương có tẩy xóa nhem nhuốc.

50.Xem thi tuế khảo.
Lấy sao thiên phụ là quan trường, Can Ngày là trò đi thi. Kỳ Đinh là văn chương.
Thấy Thiên phụ đến sinh Kỳ Đinh và Can ngày Niên Mệnh, lại hợp Kỳ Nghi cách cát, có 3 cửa cát thì tất là rất cát, đỗ đầu. Như Kỳ Đinh, Can Ngày Niên Mệnh tới cửa Cảnh thì đậu thứ nhì. Được Môn không được Kỳ, được Kỳ mà không có Môn, hoặc cùng Thiên phụ tỷ hòa thì đậu thứ 3.
Như Kỳ Đinh gặp cung Không vong, Can Ngày Niên Mệnh lại gặp thần hung, cách hung thì đậu thứ tư.
Nếu bị Thiên phụ đến khắc thì rớt.

51.Xem khoa cử.
Lấy Trực phù là quan chánh chủ khảo. Can tháng là phó chủ khảo. Thiên Ất, Chu tước là văn chương, là quan trong rèm. Cửa Cảnh, Kỳ Đinh Can Ngày là sĩ tử.
Lấy cung Trực phù sinh cung Can ngày là cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh, lại hợp thành cách cát thì chắc đậu cao. Can tháng đến sinh cũng vậy. Chu tước đến sinh Cửa Cảnh, Kỳ Đinh thì quan trong rèm gắng tiến, không sinh thì không tiến.
Cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh khắc cung Trực phù, Can tháng thì quyển văn tuy hay mà chủ khảo không ưa. Khắc cung Chu tước thì không tiến. Gặp cách hung thì văn chương lạc đề, gặp Không vong, vào mộ thì phạm trường quy. Gặp Huyền vũ thì lời văn ngoa ngoắt sai lạc, không trúng. Can Ngày gặp cung Không vong, được Trực phù, can tháng đến sinh thì văn chương tuy hay mà trên bảng không tên. Trực phù, Can Ngày, Chu tước tới Không vong thì quyển văn không vào mắt chủ khảo, vào Mộ cũng không trúng. Sau trường thấy 2 ngựa Thiên mã, Dịch mã và Thái xung thì không trúng, cần gì đợi xem bảng.

52.Xem thi đình
Lấy cửa Cảnh, Kỳ Đinh là văn chương.
Như cung can Năm đến sinh cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh, lại được Kỳ môn cách cát tất trúng đỉnh giáp. Cung Can Năm sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, không được Kỳ môn cách cát thì trúng nhị giáp. Cung can Năm không sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, mà cửa kỳ này lại vượng tướng thì trúng tam giáp. Cung can năm không sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, lại Phản ngâm, vào Mộ thì không trúng. Hoặc khắc cung can Năm, lại có thần hung thì không những không trúng lại còn bị tội nữa.

53.Xem khoa thi võ.
Lấy sao Thiên xung là quan giám thí. Lấy Can Ngày là người đi thi. Giáp Tuất Kỷ là cái cung. Giáp Thân Canh là mũi tên, cửa Cảnh là văn bài. Cửa Thương là ngựa.
Giáp Tuất Kỷ, Giáp Thân Canh cửa Thương đều tới cung vượng tướng, cùng can Ngày cùng sinh nhau thì trường ngoài thi hợp, khắc nhau thì trường ngoài trở cách.
Lại lấy Giáp Ngọ Tân là hồng tâm, Canh trên cung Tân thì tên bắn trúng hồng tâm. Canh tới Cấn Kiền thì tên bắn trúng 4 góc. Tới Tốn Chấn Khôn Đoài thì tên bắn trúng hai bên. Tới Không vong thì tên bắn không trúng. Canh tới cung gần kể như không trúng. Niên Mệnh Can Ngày được Thiên xung đến sinh lại kiêm cửa Cảnh Kỳ Nghi có cách cát thì bắn trúng, trái thế thì không trúng.
Vũ đồng (trẻ nhỏ thi võ) cũng phỏng thế.
Văn Hán Văn Dịch
Chiêm nhân sinh quý tiện Xem kiếp người sang hèn
Kỳ pháp tiên minh Phép này trước xét rõ
Đối cửu lý nhất tố tâm Đội chín giẵm một cầu tìm
Tiết khí siêu thần bát môn phối hợp cửu cung Khí tiết thần siêu Tám môn phối với chín cung
Cửu cung yêu đới tam kỳ Chín cung cần có ba kỳ
Niên Nguyệt Nhật Thời yêu vượng tướng Năm tháng ngày giờ cần vượng tướng
Bát Môn cửu cung tu suy di Tám cửa chín cung phải đối giờ
Ly cung đấu diện Cung Ly đấu mặt
Kiền Cấn lưỡng túc Kiền Cấn hai chân
Kiền Nhĩ Tả thủ : Khôn Vai, Tai , tay tả : Khôn
Tốn, Chấn tại hữu thủ cân Tốn, chấn là tay hữu, gân
Khảm vi âm thận Khảm là âm thận
Trung vi tâm phúc Giữa: bụng, long, phân
Niên can phụ mẫu, Nguyệt can Huynh đệ, Nhật can bản thân, Thời can thuộc Nhi Can năm cha mẹ, Can tháng anh em đó, Can ngày thân ta, Can giờ con nhỏ tìm.
Suy cập thê thiếp, đấn khán Ất Đinh chi lạc cung Suy tới vợ cùng thê thiếp, xem nơi Ất Đinh tọa lạc cung
Canh vi phụ định bất di Canh là chồng phép không sai lệch
Yếu tường tê kỳ cường nhược, tức năng quyết kỳ vinh khô Xét mạnh yếu mà định bổng chìm, tức biết sang hèn.
Vượng tướng đắc kỳ, thả phú thả quá Vượng tướng thêm Kỳ vừa sang vừa có
Tử Tù Mộ Tuyệt cực tiện cực ban Tử Tù Mộ Tuyệt vừa khó lẫn hèn
Cách cục yêu phân kinh trọng Cách cục chia ra năng nhẹ
Mệnh vận nghiệm kỳ đắc thất Mệnh vận nghiệm ở mất còn.
Vị bô cục tiền khán Cô Hư Chưa bày cục, trước xét Cô Hư
Vượng tướng tức khai khẩu tất biện Vượng tướng thì mở miệng rộng bàn
Thiên địa thừa thời Thái Bạch nhập Kiền Khôn, phụ mậu tảo niên luân một. Ngẫm theo trời đất: Thái Bạch tới Kiền Khôn , Cha Mẹ tuổi thơ khuất bóng
Như nhược lâm huynh đệ cung vị, thủ túc cánh thi thủ địch Nếu lâm cung huynh đệ, tay chân lục đục thù ghen.
Nhật Kỳ bị Hình ,Trang Sinh ta thán Nhật kỳ bị Hình, thầy Trang than thở
Thời trang phùng chí Đặng Thông cô nhi Can giờ gặp phải Đặng Thông không con
Sinh Môn sản nghiệp Cửa sinh sản nghiệp
Yếu đắc Môn Kỳ Môn Kỳ phải cần
Thành bại phân ư nội ngoại Trong ngoài chia phần thành bại
Sinh khắc quyết kỳ đắc thất Sinh khắc là lẽ mất còn
Sinh Môn Thái Bạch phùng sung hãm, bôi to ly hương chi khách. Cửa Sinh Thái Bạch hãm cung, xa tổ ly hương làm khách
Bị cung khắc phục tận phụ tận tỏ phụ cựu viên Ví lại thấy bị xung bị khắc: ruộng vườn tiên tổ bán sạch trơn.
Sinh tại ngoại nhi thân tại nội, tất thiên cư nhi phát phú. Sinh ở ngoài mà thân ở trong, rời tổ ra ngoài mà giàu có
Thân tại ngoại nhi thân tại nội, túng hữu tổ nghiệp việc nan dong Thân ở ngoài mà sinh ở trong, của cha mẹ để lại chắp chân bon
Thân sinh nhị cung câu tại nội an hưởng Lộc Mã Thân sinh hai cung đều ở trong, an hưởng ngựa xe tớ thầy phúc ấm
Thân sinh cầu tại ngoại cung viên phương sáng lập chi thân Thân sinh hai cung ngoài đóng, phương xa gây dựng làm nên
Nhật Trực Cô thời trực Hư thiếu niên vô ý Ngày gặp Cô giờ gặp Hư tuổi trẻ không nơi nương tựa
Thời lạc Cô nhật lạc Hư lão hậu quan độc Giờ gặp Cô ngày gặp Hư về già góa bụa chon von
Mệnh bị xung khắc khất thực đạo lộ Mệnh bị khắc xung, ăn mày đường phố
Nhật lâm Tuyệt Mộ nan thích sầu my Ngày vào Tuyệt Mộ khó tránh mày nhăn
Tai vượng sinh quan, cái nhân “Phi điểu điệt huyệt” Tài vượng sinh quan vì được cánh chim bay về tổ ấm
Ngao đầu độc lập, tất đắc “thanh Long phản thủ” Ngao đầu đứng riêng, bởi được phương Rồng xanh ngoái cổ lên
Thiên Phụ vượng tướng, đắc Kỳ Môn, văn minh hàn uyển Thiên Phụ vượng tướng, được Kỳ Môn, vườn Hàn rạng rỡ.
Thiên Xung vượng tướng đắc Kỳ Nghi, uy chấn biên cương Thiên Xung vượng tướng được Kỳ Nghi, oai chấn ngoài biên
Thiên Cầm vị chấn trung cung, đắc Kỳ Môn bách quan nguyên thủ Thiên Cầm vị ở cung trung được Kỳ Môn tất trăm quan đầu sỏ
Ương tinh Hữu Bật hợp cát cách, đỉnh nại ( ) nguyên huân. Sao Ương, Hữu Bật hợp cách cát, phải là công cả vượt trên
Thiên Trụ trực ngôn gián nghị Thiên Trụ lời ngay, là quan gián nghị
Thiên Tâm nhập viện, y dược tôi lương Thiên Tâm vào nội, thầy thuốc là quan
Nhậm vị Tả Phụ tư nông chi chức Thiên Nhậm sao Tả Phụ, giữ chức khuyến ruộng vườn
Thiên Nhuế bất khả đắc địa, phùng Kỳ Môn, tao Đống chi lưu Sao Thiên Nhuế mà không đắc địa, gặp Kỳ Môn là phường họ Đổng phong lưu
Bồng tinh vị chấn Bắc viên, đắc Kỳ Môn bạn quân chi tặc Sao Thiên Bồng giữ ngôi phương Bắc, được Kỳ Môn giết chúa là tên
Khai môn hữu kỳ, ứng chi văn chức Cửa Khai có Kỳ, giữ chức quan văn
Thương môn đắc lệnh, định hệ hổ thần Cửa Thương được lệnh, hổ tướng ngồi trên.
Sinh môn đắc Kỳ, Thạch Sùng phú túc Cửa Sinh gặp Kỳ, Thạch sùng giầu có
Cảnh môn hợp cục, Đan Thiên văn minh Cửa Cảnh hợp cục, vẻ sáng Đan Thiên
Kinh môn hợp thức, hiếu biện chi nhân Cửa Kinh hợp thức, người chuyên miệng mép
Kiền cung vi Khai, bạch đầu xuất nhậm Cung Kiền gặp Khai, tóc bạc mới làm quan
Tử môn đắc Kỳ Cửa Tử gặp Kỳ
Chức tại ty Hình Làm quan nơi Hình bộ
Phân bổ Bát Môn tinh thần Chia bảy tám Môn tinh thần
Kỳ Nghi hợp cục giả, hào phú hào quý Kỳ Nghi hợp cục, vừa phú vừa quý
Thất cục giả, hạ đẳng bình quân Không thành cục, bọn thấp dân đen
Khai môn Tâm tinh giai thị Kim tiêu, hữu khí y bốc tinh tường. Nhược trự Tử Tù thủ nghệ tân can. Cửa Khai sao Tâm đều Kim: có khí thì bói giỏi thuốc hay. Gặp Tử Tù công nghệ chân tay khó nhọc
Hưu môn Thiên Bồng đồng nhất Thuỷ tiêu, hữu khí, bính mậu lại dịch. Trực Tử Tù quân ngọ tặc nhân. Cửa Hưu Thiên Bồng cùng Thủy có khí lính cơ thầy lại. Gặp Tử Tù là phường giặc giã binh quèn.
Sinh môn Thiên Nhậm thị Thổ tú, đắc địa giả, điền địa phú túc. Nhược thất thời, đồng công nông vận Cửa sinh Thiên Nhậm là Sao Thổ, đắc địa thì lắm ruộng nhiều vườn; không gặp đất cày sâu vác nặng.
Thương môn Thiên Xung giai vị Mộc tiêu, hữu khí bính lịch chi thủ, Trực Từ Tù : mã hậu tương bôn Cửa Thương Thiên Xung đều Mộc cả, có khí thì thầy cai ngài đội; gặp Tử Tù: hầu ngựa chân quen.
Đỗ môn Thiên Phụ diệc thị Mộc tiêu, hữu khí mãi thị hàn nho; Trực Mộ Tuyệt tăng sơn đạo lâm Cửa Đỗ Thiên Phụ đều là Mộc. có khí thì lạnh lẽo đồ nho, gặp Mộ Tuyệt thầy tăng thầy đạo.
Cảnh môn Thiên Ương thị Hỏa tiêu, hữu khí hành hành uy liệt chi biểu, toàn thất cục trị bạo lực chi nhân Cửa Cảnh Thiên Ương đều thuộc Hỏa, có khí thì đường đường oai vệ. Không thành cục thì gánh vác nhọc nhằn.
Tử môn Thiên Nhuế giai thị Thổ tiêu, hữu khí Triệu Ngụy gia trưởng; trực Mộ Không cơ cùng chi nhân Cửa Tử Thiên Nhuế đều là Thổ, có khí thì Triệu Ngụy đàn anh; gặp Không Mộ mỏng manh kiệt quệ
Kinh môn Thiên Trụ………… Cửa Kinh Thiên Trụ…………..
…………………. ………………….
Bát môn biện biệt vượng tướng, tái luận cửu tinh Tám cửa đã xem vượng tướng, chín sao nay phải đem bàn:
Đắc Thiên Bồng tinh thấu thời, biện cương chi tướng; thất địa lại quân tốt cực nhân Được Thiên Bồng gặp thời lệnh, tất làm tướng trấn biên cương; thất địa lại là quân là giặc
Thiên Nhậm đắc địa, Điền thổ lộc mã chi phú; thụ khắc: nông nô tân khổ chi nhân Thiên Nhậm mà gặp thời, ruộng vườn xe ngựa giàu có; ví bị khắc: cày cuốc khó khăn
Thiên Xung hữu khí giả vũ quý, bối thời xa thuyền giang hồ chi lưu Thiên Xung có khí, võ nên sang; trái thế: thuyền ngựa sông hồ trôi chảy.
Thiên Phụ vi tả khu, đắc chí giả văn nhã sĩ hoạn, thất địa lợi cùng tạo họa công Thiên Phụ là tả khu, gặp thời thì văn hay nhẹ bước; thất thời thì thầy tu, thợ vẽ bon chen.
Thiên Ương hỏa tỵ nam Ly, thừa quyền giả tất chủ văn minh, bội thời giả cham bạo hôn dong Thiên Ương là hỏa phía Nam Ly, được lệnh thì chủ văn minh, không được thời thì bạo tàn ngu tối
Thiên Nhuế bài thị hắc tinh, đắc thiên thời tính ác bá đạo, thất thiên thời mục lị dong công. Thiên Nhuế vốn là sao đen, gặp được thời thì là ác bá, không gặp được thời thì đày tớ lầm than.
Thiên Trụ vị chấn Tây viên, hữu khí giả thiệt biện đượng thế; bị xung khác tu kỹ nhạc công Thiên Trụ phương Tây ngôi Chấn, có khí thì miệng lưỡi nhạo trời , không được khí phường chèo thợ nhạc.
Thiên Tâm nguyên tại Thái Bạch, đắc địa giả tài hoa quốc trụ, nhược Không, Mộ cửu lưu tương tầm Thiên Tâm nguyên là Thái Bạch, gặp được thời tài hoa cột trụ nước. Ví Không Mộ lưu lạc khắp chốn.
Thanh Long phản thủ, ngao đầu độc chiếm Rồng Xanh ngoái cổ, đầu ngao độc chiếm
Phi điểu diệt huyệt, ca phú nhi thành danh Chim bay về tổ, giầu có nổi tên
Thanh Long đắc quang, ấp trưởng huyện lệnh Rồng xanh được sáng, huyện quan, xã trưởng.
Đinh giả Mậu phú gia chi danh Sáu Đinh trên Mậu giàu có tiếng tăm.
Bạch Hổ xướng cuồng, hung ngoan chi bối Hổ trắng gào cuồng, phường ngu bọn ác
Thanh Long đào tẩu, nhu nhược chi nhân Rồng xanh chạy trốn, hèn yếu tồi tàn.
Cánh chủ nhân thê thành bại Vốn đã bại, thành vì vợ
Nhi chủ tả bói là thân Còn mình dựa dẫm nhàn thân
Chu Tước đầu giang, đao bút thư lại Sẻ đỏ lao sông, bút đao thấy lại
Đằng Xà yêu kiều, độc tàn tiểu nhân Rắn bay uốn éo, lòng dạ độc thâm
Thất thời giả mục manh nhĩ quý Không gặp thời mắt mờ tai điếc
Thừa khí giả, hỏa phấn thương thân Khí mà nhiều, lửa đốt thương thân
Thái Bạch nhập Huỳnh-hoặc giả tiến, chủ tiền bận hậu phú, Huỳnh-hoặc nhập Thái Bạch giả thoái, chủ gia nghiệp tiêu điều Thái Bạch vào Huỳnh-hoặc là lên, hẳn phải trước nghèo sau giàu có; Huỳnh-hoặc vào Thái Bạch là xuống, chắc là nhà cửa tiêu tàn.
Thiên Ất Thái Bạch, Thái Bạch Thiên Ất, đa thành đa bại Thiên Ất Thái Bạch, Thái Bạch Thiên Ất, nhiều thành nhiều bại
Thái Bạch đồng cung, huynh đệ lôi phân Thái Bạch cùng cung, sét đánh anh em.
Thái Bạch Bồng Tinh, thê thất thường bệnh Thái Bạch Bồng Tinh, vợ thường bị bệnh
Bồng Tinh Thái Bạch, duy bạc thanh xú Bồng Tinh Thái Bạch rèm mỏng xấu tên
Đại cách giả, bình tích tứ hải Cách Đại thì cánh bèo bốn biển
Tiểu cách giả, tạm thời thanh bần Cách Tiểu thì lắm lúc nghèo hèn
Niên Nguyệt Nhật Thời cá cách, tức…lục thân nhi suy khứ Năm tháng Ngày giờ cách ấy, tức lấy sáu thân mà suy xem.
Khán thị hà cung trắc nghiệm Xem thấy ở cung nào mà lường nghiệm
Nhi vi bội lệ vô lẽ tương tòng Biết rằng sai trái không theo lẽ bên
Suy cập phụ mẫu, huynh đệ, thê tử. hiến thủ khả dĩ tường minh. Suy đến vợ con, anh em , cha mẹ. hơn chăng có thể biết hay liền
Tân vi thiên ngục, Nhâm vi địa lao Tân là ngục trời, Nhâm là lao đất
Chủ là hạ chi phạm, cánh chủ uất ức nan thân Ngôi thì thấp kém , ức ngậm nan ngâm
Quý vi Thiên cương, tu khán cao đô Quý là lưới trời, nên xem cao thấp
Cao giả hóa vi hoa cái, khả suy quý cách Cao ấy hóa là lọng hoa, suy ra cách quý.
Đệ giá Thiên cương triền thân tịch tịch cơ hàn Thấp ấy lưới trời bó thân lạnh lẽo nghèo hèn.
Pha kỵ Ngọc nữ thủ môn Cung kỵ Ngọc Nữ thủ môn cách ấy
Thê tùy nhân hành Vợ theo người khác đi
Ất Đinh thê thiếp khán thị thùy sơ Ất Đinh thê thiếp, xét thân sơ xa gần
Ất kỳ nhập Mộ, thê bất sinh tử Kỳ Ất vào Mộ, vợ không con cái
Đinh Ất đồng cung, biệt tục tương thân Ất Đinh đồng cung, cả lẽ thương bền.
Ất Kỳ tại thượng Ngữa lên thấy ấy
Thê thiếp hiệp hòa Thê thiếp hòa hiệp
Đinh gia Ất thượng, tân hạnh phu tâm Đinh trên có Ất, lòng chồng buồn vui.
Chư cách kỳ lạc không vong Mọi cách kỵ gặp Không vong
Cát giả hàm xương, nhi khổ giả cánh khổ Cát thì may mắn, mà khổ lại khổ thêm.
Nhược lâm Mộ Tuyệt chi địa, vô cáo cùng dân Ví vào Mộ, Tuyệt: đáng mặt dân hèn
Bát môn suy lai, tôi phả phản ngâm Tám môn suy tới, rất sợ phản ngâm.
Phục ngâm diệc thị hung thần Phục ngâm đúng là hung thần.
Ngũ hành phối hợp Năm hành phối hợp
Tư lý thụ hình Ấy lẽ chịu hình.
Tại hồ nhất tâm dư bất tận ngôn đồng chí giả thúc chân. Tại lý một lòng dư không nói hết, bạn đồng chí biết cho











KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 10

Xem tớ trai gái đi mất
Tớ trai chuyên trách Thiên bàn cung Thiên Bồng, Tớ gái chuyên trách cung Thiên Nhuế trên Thiên bàn mà tìm thì tất gặp.
Ngày Dương lấy cung Bồng, Nhuế ở địa bàn mà quyết, gặp cách tất gặp. Không có cách thì không gặp. Ví nếu có Lục Hợp cùng theo, tất bị lừa dối đi.
Hai thần vào Mộ khố, có người đem giấu khó tìm được. Nếu gặp Không Vong thì không tìm thấy.

Xem đi mất về phương nào
Tiểu Nhi đi mất, độn dương thì ở phương Lục Hợp thiên bàn, độn âm thì ở phương Lục hợp địa bàn, lấy đấy mà quyết.
Nếu mất tớ gái, độn dương thì ở phương Thái Âm thiên bàn, độn âm thì ở phương Thái Âm địa bàn, lấy đấy mà định. Xét 2 thần ấy là biết người ở phương ấy rồi.
Ở Khảm, Cấn, Chấn, Tốn 4 cung là trong thì là gần. Tới Ly, Khôn, Đoài Kiền là ngoài thì là xa. Độn âm thì trái thế.
Nếu 2 thần tới cung Mộ của Can Ngày thì xa gần cũng khó tìm, tới cung Không-Vong , người ấy lại theo phương khác đi, sau thì lấy cung Thần can hợp mà tìm thì tất gặp.

Xem người đi, ở ngoài
Phép lấy can Ngày Niên Mệnh của người đó mà quyết
Can Ngày Niên Mệnh tới Khảm, Cấn, Chấn, Tốn độn dương là trong là gần; Tới Ly, Khôn, Đoài, Kiền là ngoài là xa, hợp lại mà quyết; Niên mệnh tới 4 cung chính thì thật xa, tới Khôn Cấn lại cực xa.
Độn âm lấy Ly, Khôn, Đoài, Kiền là trong thì gần; lấy Khảm, Cấn, Chấn, Tốn là ngoài thì xa, hợp lại mà quyết. Niên mệnh tới 4 cung chính dưới thì thật xa. Can Ngày Niên Mệnh đến Mộ, Phế, người ở ngoài không được như ý, không khỏe thì cũng bệnh. Nếu Can Ngày Niên Mệnh đến cung Mộ khố Không vong, lại thêm khí Tử Tuyệt thì người ấy không còn. Như Can ngày Niên Mệnh có khí vượng lại được Kỳ Môn, Cách Cát thì người đi ở ngoài phát tài như ý.

Xem người đi và kỳ về
Phép lấy Niên Mệnh của người đi, chuyên trách ở cách Canh. Ngày Dương lấy Can ở dưới Canh làm chủ. Ngày Âm lấy Can ở trên Canh mà định. Cách Niên thì một năm ấy sẽ về. Cách Nguyệt thì tháng ấy sẽ về. Cách Nhật thì ngày ấy sẽ về. Cách Thời thì giờ ấy sẽ về. Không có cách thì không về.
Thế nào gọi là không có cách? Ất Canh là hợp không là cách. Canh Kim vào Mộ hoặc gặp Không Vong là không có cách.

Xem vay nợ
Phép này lấy sao Thiên Bàn ở phương đi đến là người đi vay, lại lấy sao Thiên Bàn chuyển đến sao Địa bàn, sao Địa bàn là nhà cho vay.
Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn thì được vay. Thấy tỷ hòa thì tuy có cho vay nhưng ngần ngại nghi ngờ. Thấy khắc nhau thì không được vay mà còn thêm nhục nữa. Nếu thấy Can ở Thiên bàn vào Mộ khố của Địa bàn thì hẳn keo kiệt không cho vay. Thấy vào cung Không Vong thì hẳn quả là không có, đi vay làm gì.

Xem đánh bệnh trừu phong (chim đả trừu phong)
Lấy cung Can ngày là người đi đánh bệnh. Phương đi đến là xứ có trừu phong. Được Kỳ Môn cách cát sinh Can ngày thì đi là có lợi. Không được Kỳ Môn cách cát mà có đến sinh cũng lợi. Tỷ hòa thì bình bình. Khắc chế cung Can ngày thì đi sẽ bị tổn. Tới cung Không Vong, Mộ, Tuyệt thì không thấy, chỉ khó nhọc vô ích, đi làm gì?
Lời dẫn: chữ Trừu phong, từ điển Đào Duy Anh giải là một thứ bệnh giống bệnh kinh phong. Nếu nghĩa này mà đúng thì có thể đây là một thầy thuốc đi đánh gió, cạo gió gì đấy chăng ?

Xem vào yết quý nhân
Nếu là Quý Nhân hiện đương nhậm quan thì lấy cung của Khai Thiên bàn làm chủ. Chưa đi nhậm hay đã trí sĩ thì thêm Giáp Tý Mậu thiên bàn. Lấy Can Ngày là người cầu vào yết.
Cửa Khai Giáp Tý Mậu có khí vượng tướng, lại được Kỳ Môn Bách Cát đến sinh cung Can Ngày thì đi yết tất gặp, gặp thì có ích, việc cầu như ý.
Cửa Khai Giáp Tý Mậu với Can Ngày tỷ hòa, cầu đến yết chỉ có chậm tý chút. Cửa Khai Giáp Tý Mậu cùng cung thì quý nhân có khách, phải đợi. Nếu cửa Khai Giáp Tý Mậu phản ngâm thì quý nhân đã ra đi, không gặp được. Cửa Khai Giáp Tý Mậu vào Mộ khố thì không gặp. Cửa Khai Giáp Tý Mậu bị chế thì quý nhân có việc lo lắng, không gặp được, có gặp cũng không ích. Cung cửa Khai Giáp Tý Mậu khắc cung Can Ngày thì quý nhân không vui, uổng gặp xấu hổ.
Nếu đến yết quan võ thì xem cửa Đỗ, cũng phỏng theo đây.

Xem sinh trai gái sống lâu
Lấy cung Thiên Bàn mà can giờ sinh tới, xem là cung nào, thần nào. Lấy Thiên Bồng là Thiên Tặc (giặc trời), Huyền Vũ là Du Sinh (sống nổi). Phạm 2 thần này, lại gặp giờ Hưu Phế không khí thì không nuôi được. Nếu có Kỳ Môn, cách cát, thần cát, lại có khí vượng tướng thì mệnh dài và phú quý.

Xem ngày sinh con
Lấy cung Khôn nhà đẻ. Thiên Nhuế là bà mẹ (đẻ). Được sao nào trên thiên bàn là tiểu nhi.
Thiên Nhuế khắc sao trên Thiên Bàn thì sinh mau. Sao Thiên Bàn sinh sao địa bàn Thiên Nhuế thì con luyến bụng mẹ mà đẻ chậm. Sao Thiên Bàn khắc sao Địa bàn thì mẹ hung. Sao Địa Bàn khắc sao Thiên Bàn thì con chết. Nếu có khí vượng tướng và Kỳ Môn, cách cát, thì mới cát. Như sao Thiên Bàn rơi vào Mộ khố địa bàn thì con chết trong bụng mẹ. Thiên Địa 2 Bàn có đều hung, cách hung thì mẹ và con đều hung cho là Thiên Địa 2 Bàn gặp khí Tử, Tuyệt mà thế.

Xem đòi nợ
Lấy cung Thiên Ất tới là người thiếu nợ. Lấy cung Câu Trận tới là người đi đòi nợ.
Cung Câu Trận khắc cung Thiên ất thì người này thật lòng đi đòi nợ. Cung Thiên Ất khắc cung Câu Trận thì người này được sai đi đòi nợ sợ kẻ kia mà không dám đòi. Câu Trận và Thiên Ất sinh hòa nhau thì 2 người thông đồng mà không đòi. Câu Trận bị Thiên Ất sinh thì có phó thác hối lộ mà người sai không chịu đòi. Cung Thiên Ất có khí vượng tướng đến sinh Trực Phù thì tất trả nợ. Ví rơi vào Không Vong mà đến sinh Trực Phù (nên biết Trực Phù là người cho vay) thì có lòng mà sức không trả được. Cung Thiên bồng và cung Thiên Ất mà khắc chế cung Trực Phù thì yên tâm không trả nợ tất không thể đòi được (Bảng nguyên thiếu những dòng dịch ra viết chữ ngã trên đây)

Xem cho vay nợ
Lấy Sáu Giáp Trực Phù là người cho vay, sau dưới Trực Phù là Thiên Ất tức là người vay nợ.
Nếu sao Địa Bàn có khí vượng tướng sinh sao thiên Bàn thì người vay tức trả nợ. Gặp cách hung khắc sao Thiên Bàn thì không chịu trả nợ. Rơi vào Không Vong thì chết cho nên không trả được nợ. Gặp cung Mộ Tuyệt thì vỡ nợ không trả (câu này nói về Can thuộc sao Địa Bàn ).

Xem mua hàng
Lấy cung Can Ngày là người đi mua hàng. Lấy cung Can giờ là hàng.
Cung Can giờ có khí vượng tướng lại được Kỳ Môn cách cát thì hàng tốt. Gặp khí Hưu Tù không được Kỳ Môn cách cát thì hàng xấu hỏng. Cung Can giờ đến sinh cung Can ngày thì hàng không kể tốt xấu thì đều có lợi tức, đến khắc cung Can Ngày, hoặc gặp Mộ Tuyệt Không Vong thì hàng không có lợi thì mua thu làm gì. Ngoài ra lấy loại này mà suy.

Xem thai nam nữ
Phép lấy cung Khôn sao Thiên Nhuế làm mẹ. Lấy Thiên Bàn trên cung Khôn là thai tức sao Dương là thai nam, sao Âm là thai nữ. Duy Thiên Cầm tới thì sinh đôi. Can dương là nam, Can âm là nữ.

Xem trao hàng kiếm tiền (thoát hóa cầu tài)
Lấy Trực Phù Giáp Tý Mậu là Ta, Lấy Thiên Ất là người trao hàng. Lấy Lục Hợp là người mối.
Ví cung Thiên Ất có Kỳ Môn Cách cát đến sinh cung Trực Phù thì hàng ấy có thể trao; Tỷ Hòa thì trao cũng không ngại. Trái thế thì không trao được, mà trao thì mất.
Lại xem cung Lục Hợp thấy sinh cung Thiên Ất thì người trao hàng và người mối đều cát; sinh cung Trực Phù và cung Giáp Tý Mậu thì người mối và người trao hàng đồng lòng. Ví Lục Hợp vào Mộ hoặc rơi cung Không Vong thì chắc có sự gian trá dối trá, không thể trao hàng.

Xem buôn bán lấy lời: (Thục: hóa cầu tài)
Lấy cung Can Ngày là chủ hàng. Cung Can Giờ là hàng. Cung Giáp Tý Mậu là vốn. Cung Cửa Sinh là lợi tức.
Thấy cung Can ngày sinh cung Can giờ thì người tiếc hàng không chịu giao, Ví cung Can giờ sinh cung Can ngày thì hàng luyến người không trao được.
Lại xem cung Can giờ sinh cung Giáp Tý Mậu và cung cửa Sinh thì có lợi tức. Trái thế thì không có lợi tức.
Nếu cung Can giờ có Thần hung, cách hung đến xung khắc cung Can ngày thì có hao hụt.
Duy cung Can Ngày khắc cung Can giờ, tuy muốn trao hàng gấp mà vẫn mắc chậm. Cung Can giờ khắc cung Can ngày, bán ra tất nhanh.

Xem mở quán hàng
Lấy Cửa Khai mà chủ.
Cửa Khai có khí vượng tướng, thêm Kỳ Môn cách cát đến sinh cung Can Ngày thì cát lắm. Thấy Tỷ hòa, không khắc chế thì cát vừa.
Ví cửa Khai vào Mộ hoặc Phản ngâm và rơi vào Không Vong thì không lợi.
Cung Cửa Khai có thần hung, cách hung đến xung khắc Can ngày, cũng không lợi.

Xem hợp nhau cầu tài
Lấy cung Can ngày là Ta. Cung Can giờ là kể của bọn.
Can giờ có Kỳ Môn cách cát đến sinh Can Ngày thì hợp tổ có ích cho ta. Can Ngày có Kỳ Môn, cách cát sinh Can giờ thì có ích cho người. Hai cung tỷ hòa thì hợp vốn công bình. Không ai sai suyến. Ví cung Can giờ có thần hung, cách hung đến khắc cung Can ngày thì không lợi.
Lại xem Cửa Sinh có sinh Ta, hay không sinh Ta mà suy ra trăm điều không sai một.

Xem đổi chác
Lấy Giáp Tý Mậu là vốn, Cửa Sinh là lợi tức.
Cung Cửa Sinh được Kỳ Môn cách cát đến sinh cung Giáp Tý Mậu thì được lời bội. Hai cung tỷ hòa cũng được lợi trung. Cửa Sinh đến khắc cung Giáp Tý Mậu lại có thần hung cách hung thì thiệt vốn. Cung Giáp Tý Mậu sinh cung Cửa sinh thì phải thêm vốn mới được lợi tức. Ví Cửa Sinh tới đến Mộ Tuyệt lại có thần hung, cách hung thì hao hụt hết vốn. Hung lắm.

Xem cầu tài
Lấy Giáp Tý Mậu là thần tài. Cửa Sinh là phương có tài. Xem Thiên bàn 2 cung tới phương nào. Lấy 2 phương ấy có sinh khắc tỷ hợp mà nghiệm được mất.
Thiên Bàn Giáp Tý Mậu với cửa Sinh tới 4 cung Khảm, Cấn, Chấn, Tốn độn dương là trong là gần, lại là nhanh, lại được Kỳ Môn, cách cát thì tất được nhiều. Ví được Môn không được Kỳ, được Kỳ không được Môn thì được không nhiều. Môn Kỳ đều không được, không rơi phải Không Vong, Mộ, Tuyệt, không bị địa bàn khắc chế thì được ít.
Hoặc Giáp Tý Mậu và cửa Sinh tới một ở trong, một ở ngoài thì được chậm. Hai cung đều ở ngoài thì cầu tài ở ngoài ngàn dặm. Hai cung rơi vào Không Vong, Phản ngâm, Mộ, Tuyệt, lại có thần hung, cách hung thêm vào thì không được tài.

Xem giao dịch
Lấy cung Can Ngày là Ta. Cung Can giờ là người. Lục Hợp là người mối
Can Ngày sinh Can giờ chủ mua chịu đặt. Can giờ sinh Can ngày nghiệp chủ ý muốn (nguyện ý). Can ngày khắc Can giờ, chủ mua không đằm thắm (bất yếu). Can giờ khắc Can ngày thì nghiệp chủ không bán.
Lục Hợp sinh Can ngày thì người mối về phe chủ mua. Sinh Can giờ thì về phe người bán.
Hai cung của 2 Can tỷ hòa nhau thì 2 nhà công bình, giao dịch thành. Hai can có một rơi vào Không Vong thì giao dịch không thành.

Xem mua nhà cửa
Lấy Trực Phù là chủ mua, Cửa Sinh là nhà trọ. Cửa Tử là đất cát.
Hai cửa Sinh Tử có 3 Kỳ cách cát, đến sinh cung Trực Phù thì mua rồi sẽ phát đạt. Hai cửa không được cách cát, đến sinh cung Trực Phù thì bán rồi sẽ phát đạt. Hai cửa không được cách cát, đến sinh cung Trực Phù thì trung cát, tỷ hòa bình an.
Hai Cửa gặp khí Hưu Phế lại có thần hung, cách hung đến khắc cung Trực Phù thì mua rồi sẽ phá bại gia tài. Trực Phù sinh 2 cửa này thì nhân mua nhà mà sinh lụn bại không lợi.

Xem người thọ yểu cát hung
Phép lấy 2 sao Xung, Trụ hợp cửa Tử xa gần mà định.
Nam thì lấy sao Thiên Xung khởi bầy thuận Kỳ Nghi. Nữ thì lấy sao Thiên Trụ khởi bầy nghịch Kỳ Nghi. Xem đến cửa Tử thì còn cách mấy cung. Mỗi cung là 10 năm. Khởi tính đến cửa Tử bao nhiêu là thọ bấy nhiêu số 10 năm tròn. Lại lấy 1 cung là 1 năm, xem lẻ bao nhiêu thì là số năm còn lẻ. Lấy 4 chính cung, mỗi cung chỉ là 1 cung. Duy 4 góc thì tính làm 2 cung. Vì rằng 4 cung góc có 8 chi.

Xem Niên Mệnh cát hung
Lấy phương người lại hỏi, xem từ đâu, hợp với giờ đúng của Trời Đất (thiên địa chính thời) và phương của Niên Mệnh lại mà suy.
Phương lại được Kỳ Môn, cách cát thì Niên Mệnh ấy tất cát. Cung Niên Mệnh hợp Kỳ Môn cách cát cũng cát. Phương Niên Mệnh cũng có Kỳ Môn cách cát, lại có khí vượng tướng tất có gặp may mắn hoạnh phát (phát mạnh). Vào Mộ khố địa bàn thì mờ mịt (hôn hôi). Rơi vào Không Vong thì trăm việc không thành. Vào cửa Tử thì chết; cửa Thương thì bệnh; cửa Kinh thì cãi cọ mang tiếng, kiện cáo; cửa Cảnh thì đổ máu, tai lửa; cửa Đỗ thì lo lắng; cửa Khai thì gặp người quý; cửa Hưu thì tiến đến yết người quý; cửa Sinh thì phát tài, có mừng.
Đại để được Kỳ Môn thì cát, gặp của hung cùng khắc Niên Mệnh thì hung, không khắc thì có hung nhỏ.

Xem Nạp sủng (được yêu)
Lấy Kỳ Ất là Thê, lấy Kỳ Đinh là Thiếp, Thái Bạch Canh Kim là chồng.
Ví cung Ất, Đinh sinh cung Canh thì người gái chịu lấy chồng, Cung Ất Đinh khắc cung Canh thì không chịu lấy, Cung Ất Đinh hòa nhau, hợp nhau thì thiếp hòa hiệp. Như Ất khắc Đinh thì Thê không dung được Thiếp. Hoặc Đinh khắc Ất thì thiếp muốn đòi Thê.
Ví cung Ất Đinh hãm trong cung Mộ Tuyệt thì không thể thành, thành cũng không lợi. Như Canh Kim sinh cung Kỳ Đinh thì có khó nhọc mà không thành.

Xem hôn nhân
Lấy Canh kim là nhà trai, Kỳ Ất là nhà gái, Lục Hợp là người mối.
Cung Canh sinh cung Ất thì nhà trai yêu nhà gái ? Cung Ất sinh cung Canh thì nhà gái yêu nhà trai. Được Kỳ Môn cách cát thì hôn nhân thành, tỷ hòa không khắc chế nhau cũng thành.
Ví cung Canh khắc cung Ất thì nhà trai hiềm nhà gái không thành. Cung Ất khắc cung Canh thì nhà gái hiềm nhà trai mà không thành. Nếu thành gượng thì sau có hình khắc.
Canh Kim vào Mộ có cách hung thì hình chồng, Kỳ Ất vào Mộ có cách hung thì hình thê.

Xem mưa
Lấy sao Thiên Cầm là chủ giữ mệnh (tư mệnh chi chủ) Thiên Trụ là Thầy mưa (Vũ sư). Thiên Xung là thần Sấm (lôi thần). Thiên Phụ là bác gió (Phong bá). Đằng Xà là chớp (điện quang). Thiên Bồng là thần nước (thủy thần). Giáp Thìn Nhâm là thần Rồng (long thần).
Thiên Cầm tới vượng tướng, Thiên Trụ, Giáp Thìn Nhâm quanh ở cung 1-3-7 hoặc dưới là Giáp Thìn Nhâm thì mưa to. Có tới Giáp Dần Quý, dưới có Giáp Dần Quý ở cung 1-3-7 đến thì mưa nhỏ. Giáp Thìn Nhâm tới cung Chấn là Rồng lên cửa Sấm (Long đằng Lôi Môn) thì có mưa, có sấm. Đinh tới Đằng Xà địa bàn thì có chớp nháy. Gặp cửa hung, tới Đằng Xà địa bàn là Rồng sấm phát rồng giao chấn quái (Lôi Long phát giao chấn quái). Rơi vào cung Không Vong Mộ khố thì mây mù không mưa.
Tháng Đông, xem sao Thiên Tâm và Thiên Nhậm thổ, có tới Nhâm Quý, dưới có Nhâm Quý, hoặc gặp Huyền Vũ, Bạch Hổ thì là Thủy Thổ kết đọng làm tuyết. Không vong vào Mộ thì lạnh âm.
Lai xem thấy Hổ trắng gào cuồng (Bạch Hổ xướng cuồng) thì gió to. Rồng xanh chạy trốn (Thanh Long Đào Tẩu) thì nổi gió, mây tan, không mưa. Bạch vào Huỳnh thì mưa đá, Huỳnh vào Bạch thì tạnh.
Nếu Thiên Trụ quanh đến cung 1-3-7 dưới có Nhâm Quý, hoặc dưới là cung Nhâm Quý không thấy Nhâm Quý mà thấy Đằng Xà thì cầu vồng mọc, không mưa. Như cung tới mà dưới có Chu Tước, hoặc rơi vào Không vong thì khô nỏ, không mưa, nếu cố cầu thì có tai lửa.

Xem dựng lò vôi
Phép xem lấy cửa Cảnh làm chủ.
Cửa Cảnh được khí vượng tướng, có ba kỳ cách cát đến sinh Can ngày Niên Mệnh ta thì cát, dựng được. Nếu tới thần hung , cách hung khắc Can ngày Niên Mệnh ta thì hung.
Gặp cách sẻ đỏ lao sông (Chu tước đầu giang). Rắn bay uốn éo (Đằng xà yêu kiều) thì hung lắm, đoán là không dựng được.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 11


Quyết ngàn vàng

Lệ khởi Nhân chuyên Sát Cống:
Bốn tháng Mạnh, ngày Giáp Tý khởi yêu tinh.
Bốn tháng Trọng, ngày Giáp Tý khởi Hoặc tinh.
Bốn tháng Quý, ngày Giáp Tý khởi Hòa đao.
Tính luân theo từng ngày, hết vòng quay lại:
- Yêu tinh Huyền vũ. – Hoặc tinh Chu tước. – Hòa đao Bạch hổ. – Sát cống Thanh long. Trục tinh Kim quỹ. – Bốc Mộc Đao phù. – Dác kỷ Thái âm. – Nhân chuyền Kim đường. – Lập tảo Câu trận.

Hình đồ ba giáp Mở Đậy (Khai Hạp)
Giáp Mạnh:
Trong mở: Giáp Dần: hợp tinh dương khí dương ở trong.
Ngoài đậy: Giáp Thân: hợp tinh âm khí âm ở ngoài. Lợi chủ, không lợi khách. Lợi thủ.
Giáp Trọng:
Nửa mở: Giáp Tý: hợp tinh dương khí dương. Lợi chủ, lợi ứng sau.
Nửa đậy: Giáp Ngọ: hợp tinh âm. Làm cách thì lợi, thủ không lợi.
Giáp Quý:
Đều đậy:
Giáp Thìn: hợp tinh dương khí dương ở ngoài. Lợi khách, lợi thương binh.
Giáp Tuất: hợp tinh âm, khí âm ở trong. Lợi chủ, lợi nghinh địch.

Hình đồ bước cương họ Vũ (Vũ Cương đồ)
Phần chữ hán:
Vũ bộ tương thôi đăng Dương minh,
Nhất khí hỗn độn quản ngã hình
Thiên hồi địa chuyển bộ thất tinh
Nhiếp Cương, phủ Đẩu giác thông linh,
Ác nghịch thôi phục yêu ma quân,
Chúng tinh trợ ngã, trảm yêu tinh,
Ngũ đắc trường sinh du Thái Thanh.
Dịch:
Khi ra quân, chân trái hướng lên trước, giẫm và niệm chú rằng:
Bước Vũ giục nhau lên Dương minh,
Một khí hỗn độn tưới ngã (ta) hình,
Trời hồi đất chuyển giữa bầy tinh,
Nhẩy Cương úp Đẩu thấy thong linh,
Ác nghịch yêu ma chịu nép mình,
Chúng tinh giúp ta chém yêu tinh,
Ta được trường sinh nơi Thái Thanh.
Chân trái, chân phải, mỗi bước một câu niệm đi. Chớ có quay đầu lại.


XEM VIỆC BINH
Luận Trực Phù
Xà: Ba quân giữ mệnh (tam quân tư mệnh)
Phù: sĩ tốt, cờ trống.
Âm: âm mưu, mai phục, tư thong.
Hợp: mưu thần giúp kế (tán hoạch).

Trực sử
Hưu: nuôi sống, thu hang (binh).
Sinh: làm doanh lũy, an quân.
Thương: thưởng phạt, bắt kẻ trốn.
Đỗ: phục hiểm, đêm lẩn, vách vững.
Cảnh: đưa thư, thám thính.
Tử: làm lợi, giết tù.
Kinh: bắt giết.
Khai: cửa vách, nghinh địch, sai xứ.

Mười can
Giáp: tổng nhung Ất: phó tướng
Bính: tiên phong Đinh: thuyết khách
Mậu: đậi đội Kỷ: xe truy trọng
Canh: quân cứng (kình địch) Tân: quân ngựa nhẹ
Nhâm: quân ngựa Quý: song hiểm trở.

Chín tinh
- Mãnh tướng – tham tướng (sư tử) – Chiến tướng – Nho tướng – Hung tướng – Ngoan tướng (tướng ngu) – Nghĩa tướng – Hùng tướng – Thiên tướng.

Chín cung
1.Thân Tý Thìn: nên thủy chiến. 2.Bốn góc lợi phá vây.
3.Dần Ngọ Tuất: nên hỏa công 4.Tiết khí
5.Tiết khí 6.Tiết khí.
7.Tị Dậu Sửu: chiến 8.Bốn góc giữ yên vách, cố giữ
9.Hợi Mão Mùi: nên viện giải.

Môn hộ (cửa ngõ)
Âm hợp, Địa, Thiên: hỷ tới
Câu, Bạch, Chu, Huyền: kỵ chiêu.
Thiên Mã thì tựa (đánh tọa)
Thiên mã ra đi (xuất hành) như cưỡi ngựa Ký bay.

Ba Giáp
Giáp Mạnh: Hợp sao Dương, khí Dương ở trong: lợi chiến,
: Hợp sao Âm, khí Âm ở trong: lợi thủ.
Giáp Trọng: Hợp tinh Dương: lợi ứng sau.
Hợp tinh Âm, khí Âm ở Môn: lợi chủ.
Giáp Quý: Hợp tinh Dương, khí Dương ở ngoài: lợi thủ.
Hợp tinh Âm, khí Âm ở trong: lợi thủ.

Luận Can Chi
Can ngày: Quân ta Can giờ: quân địch.
Ngày khắc Giờ thì chiến tất được.
Can giờ ví lại khắc Can ngày,
Hiệu lệnh ba quân nên vững vách,
Can Ngày ví được Can Giờ sinh,
Ý riêng tướng ấy quay về phục,
Duy kỵ Thân sinh là Quý nhân (Thủy Thổ trá nên vậy)
Đề phòng hàng trá thì vô ích.
Can Giờ ví lại thoát Can Ngày,
Đôi lũy khoang này lừa mẹo đích.
Chủ khách xưa nay lấy ngày giờ,
Khởi trước là quân trong hàng khách.
Chi Ngày, Chi Giờ Thiên tướng đây,
Sinh Khắc hưu cữu như Can mach,
Hai phía nạp âm nên xét xem,
Trước sau thắng phụ quân việc cách,
Hành sư sinh vượng khí biện ra.
Hưu cữu hình khắc đừng hướng kích,
Thiên Cương Lục Nhâm đạo diệu huyền,
Sát cổng, Nhân chuyên, Đại An sách,
Mệnh đường, Thiên Đức, Kim Quỹ nay
Thiên tướng: là tướng chỉ huy 25 cỗ xe khi ra trận.

Luận Trực phù
Trực phù ngôi ấy Đại tướng quân,
Bản cung truyền cát lập công huân.
Ba cung kiểm điểm không hung ngại
Xông xáo Tây Đông chẳng ngại ngần.
Lại đem Niên Mệnh mà tham bác,
Không gặp Hình Xung, không họa xâm,
Thiên, Địa, Đằng, Âm, Chu, Cửu Lục,
Kẻ địch là ai, ai kẻ thân.
Cửu Địa Thiên hình phòng đến cướp,
Cửu Thiên hại cách chớ xua quân,
Trực phù chớ để ngày giờ hại,
Phương vị nên sinh Đại tướng quân (Tức Trực phù).

Luận Trực sử
Trực sử được thời dễ tiến lên,
Địa Môn mà cát chia chính biên,
Xét xem Chủ Phó Niên và Mệnh,
Môn cát thấy trong đắc thắng liền,
Ví gặp Cương La và phản phục,
Thái công ngầm trợ cũng vô duyên.

Luận 10 Can
Cơ Ngẫu đã chia ra mỗi bên,
Rất hiếm Tù Mộ với Hình xen,
Thần nào chế giáp cần tù, cữu,
Thần phụ giúp thì có sợ len,
Giáp sử dụng thần là địch nép,
Trong doanh gian tế tìm lùng xem.
Tra xét Cô Hư trong bản cục.
Là Kỳ Nghi nào với cục in,
Chia cục Cô Hư cung nào gặp,
Biết sợ hung cát lẽ tự nhiên.
Còn sợ Thần Dụng và Hình cách,
Mất mát đi theo sao có yên.

Luận 9 tinh
Chín cung phương vượng nên giữ thắng,
Hưu tù đất hãm chớ hưng sư,
Bội cách Phi phụcđều không đặng,
Rất hay: sao cát, Kỳ môn cư.
Trên trời gió sấm lại trợ thắng,
Trên dưới tả hữu Đẩu với Phiêu.
Nhảy Cương giẫm Đẩu, Đinh Giáp cáng,
Tướng Thần tướng Quý trang quân uy.

Luận 9 cung
Chín cung đầu mối xét thiên thời,
Đất hợp 3 phương có chúng coi,
Thủy Hỏa Kim Mộc Thổ đều khác,
Chủ tướng Niên Mệnh chớ nên sai.
Chính cục đặt doanh và dựng trại,
Quá cục quân lương đóng được rồi,
Rồi sau cục ấy phục tiếp tiễu (tiễu trừ)
Chia quân chẵn lẻ báo triều ngơi.

Luận môn hộ
Môn Hộ nên hiềm Mộ cách Hình,
Dùng khi độn Giả Trá thay tình,
Ví tới Cô Hư nơi đất ấy,
Ra quân không lợi, lợi đào binh (quân ẩn giấu),
Ví Thiên Ất tới Thiên Môn ấy,
Quỷ giấu thần che, việc thấy hanh.

Luận Ba Giáp
Ba Giáp chia ra Mở Đậy tình,
Mở hưng sư được, đậy yên binh,
Giáp đầu (Mạnh giáp) Phản Phục không nên động,
Giáp Trọng Phản Phục do dự trình.
Giáp Quý Phản Phục là nên động,
Theo Cương mà quyết đoán huyền tông,
Còn có trên Huyền cung ấy nữa,
Trong trì biên tốc, Động thì minh (giữ yên),
Giáp mạnh trên trọng nên thám thính,
Trên Quý thì nên mạnh tiến chinh (chinh phạt)
Giáp Trọng trên Mạnh, yên lòng đó (thủy đương tâm),
Trên Quý cung này tốt dựng doanh.
Giáp Quý trên Mạnh, quyền lấn sắc,
Trên Trọng giờ này phòng phục binh.
Giờ Dương mừng được trên khắc dưới,
Giờ Âm khắc ngược (dưới khắc trên) mới yên lành

Luận cách cát hung
-Phản thủ, một chiến thành công (1)
Về Tó, phục binh phải được (2).
-Thiên Độn (3), huênh hoang cờ trống, phần thắng có thể cầm tay;
Địa độn (4), giữ vững doanh trại, đặt phục quân kỳ lạ trước.
-Nhân độn (5) lợi trinh thám; - Thần độn (6) tiện âm mưu.
Quỷ độn (7) cướp trại nên; - Long độn (8) cầu đảo phước.
-Hổ độn (9) chiêu hàng địch, oai chấn phương xa;
Phong Vân độn (10) cả hai, lánh xa hay trước.
-Tam trá mở trận công thành (11).
Ngũ giả biên trận tất được (12).
-Tam kỳ đắc sử (13), nhờ sức tướng Thiên Tỳ.
Ngọc nữ thủ môn (14), đặt riêng ngầm mưu lược.
-Tam thắng cung (15) trăm trận đều hay;
Giờ Thiên phụ (16), tội tha tình khước.
-Thiên tam Môn (17), cờ chiêu dụ treo lên;
Địa tứ hộ (18), quân phục ngầm đặt trước.
-Địa tư Môn (19), ngầm mật lối đường;
Phương Thiên mã (20), chốn nan đất thuộc.
-Cát môn, cát tinh, cát phù;
Chiến tranh thủ công lấn lướt.
-Ất trên Tân (21), cẩn thận kẻo thua hoài;
Tân trên Ất (22), mưu cao khôn đặt cước.
-Quý trên Đinh (23), phòng đồn nhảm trong quân;
Đinh trên Quý (24), tướng thua trong ngờ vực.
-Phục can (25), nên lo giặc xộc vào;
Phi can (26), đáng sợ mắc mưu giặc.
-Phục cung (27), định mệnh khó ngăn ngừa;
Phi cung (28), tướng tiên phong gặp nhược.
-Đại cách (29), nên lo quân cướp trại;
Tiểu cách (30), quân phục phải đề phòng.
-Hình cách(31), trong chiến trận ít công;
Bột cách (32), thốt khởi quân sợ bước.
-Tuế cách (33), doanh chủ tướng xôn sao;
Nguyệt cách (34), thiên tướng bị thương buộc.
-Nhật, Thờicách (35), chớ có đánh ham;
Ngũ bất ngộ (36), thôi đừng tiến cuộc.
-Huỳnh nhập Bạch (37) kia vờ chạy để quật sau;
Bạch nhập Huỳnh (38) đó giặc cùng đừng mải rượt.
-Cương La(39) liệu hố hầm;
Phản Phục(40) kiêng đấu sức.
-Tam kỳ nhập Mộ (41) và Chế Hình;
Phó tướng viện binh không tận lực.
-Lục Nghi kích hình (42), trận tuy được cũng đau nhừ;
Môn Không Chế Bách (43), dinh tuy bền phòng cướp bóc.
Lời người dịch
1. Cách Thanh long phản chủ: Trực Phù trên sáu Bính.
2. Cách Phi điểu điệt huyệt: Sáu Bính trên Trực Phù.
3. Thiên Độn: Sinh môn gặp lục Bính. Cửa Khai gặp sáu Ất. Ba cửa cát gặp sáu Bính và trên sáu Đinh. Ba cửa cát gặp sáu Bính và trên Cửu địa, hay Thái Âm cửa Khai gặp sáu Bính và Lục hợp.
4. Địa độn: Cửa Sinh gặp sáu Ất và Cửa địa. Cửa Khai gặp sáu Bính.Ba cửa cát gặp sáu Ất và trên Lục hợp, hay Thái Âm, Cửa Địa. Sáu Ất gặp Cửa Khai và trên Kỷ.
5. Nhân độn: Cửa Khai gặp Sáu Đinh và Thái Âm. Cửa Hưu gặp Sáu Đinh và Thái Âm. Ba cửa cát gặp ba kỳ và trên Lục hợp. Cửa Sinh gặp sáu Ất và trên Cửu Địa. Cửa Sinh gặp Ba Kỳ và trên Thái Âm.
6. Thần độn: Cửa Khai gặp Sáu Ất và Thiên Tâm hay Thiên cầm lại trên Cửu Thiên tại cung Kiền. Cửa Sinh gặp Sáu Bính và Thiên Tâm hay Thiên Cầm lại trên Cửu Thiên. Sáu Đinh gặp Cửu Địa trên cung Cấn. Cửa Khai gặp Sáu Ất và Cửu Thiên trên cung Cấn.
7. Quỷ độn: Cửa Hưu gặp Thiên tâm trên sáu Đinh ở cung Cấn. Cửa Sinh gặp Thái âm trên sáu Đinh. Cửa Sinh gặp Cửu địa trên sáu Đinh.
8. Long độn: Ba cửa cát gặp Thiên tâm, sáu Nhâm và Lục hợp ở cung Khảm. Cửa Hưu gặp sáu Ất ở cung Khảm. Cửa Khai gặp sáu Mậu trên Cửu địa. Cửa Hưu gặp sáu Đinh trên Cửu địa và ở cung Khảm.
9. Hổ độn: Cửa Khai gặp sáu Canh ở cung Đoài. Cửa Hưu gặp sáu Ất và trên sáu Tân ở cung Cấn. Cửa Sinh gặp sáu Tân trên sáu Ất ở cung Cấn.
10. Phong độn: Ba cửa cát trên sáu Ất ở cung Tốn. Vân độn: ba cửa cát gặp sáu Ất trên sáu Tân. Cửa Sinh gặp sáu Nhâm. Thiên nhuế ở cung Khôn. Ba cửa cát gặp sáu Tân trên sáu Ất hay Thiên nhuế. Cửa Sinh trên Cửu địa ở cung Khôn.
11. Tam trá là:
- Thần trá: ba cửa cát gặp ba kỳ và trên Thái âm. Ba cửa cát, Ba kỳ và Thái Âm cùng cung.
- Hưu trá: ba cửa cát gặp ba kỳ và trên Lục hợp. Ba cửa cát, Ba kỳ và Lục hợp cùng cung.
- Trọng trá: ba cửa cát gặp ba kỳ và trên Cửu địa. Ba cửa cát, Ba kỳ và Cửu địa cùng cung.
12. Ngũ Giả là:
- Thiên giả: Cửa Cảnh gặp ba kỳ trên Cửu thiên.
- Địa giả: cửa Đỗ gặp Đinh Kỷ Quý và trên Cửu địa hay Thái âm, hay Lục hợp (gọi là ba cung Án).
- Thần giả: cửa Thương gặp Đinh Kỷ Quý và trên Cửu địa hay Thái âm hay Lục hợp.
- Nhân Giả: cửa Thương gặp sáu Nhâm hay Lục hợp và trên Cửu Thiên.
- Quỷ giả: cửa Tử gặp Đinh Kỷ Quý và trên Cửu địa. Đinh Kỷ Quý gặp ba cung Án và trên cửa Tử.
13. Tam kỳ đắc sử: Ất trên Kỷ Tân. Bính trên Mậu Canh. Đinh trên Nhâm Quý.
14. Ngọc nữ thủ môn: Giáp Kỷ gặp Bính. Ất Canh gặp Tân. Bính Tân gặp Ất. Đinh Nhâm gặp Kỷ. Mậu Quý gặp Nhâm. Đinh trên Trực sử hay Trực sử trên Đinh.
15. Tam thắng cung: các cung Trực phù, Cửu thiên, cửa Sinh.
16. Thiên Phụ thời cách: Ngày Giáp Kỷ gặp Tỵ. Ngày Ất Canh gặp Thân. Ngày Bính Tân gặp Ngọ. Đinh Nhâm gặp Thìn. Ngày Mậu Quý gặp Dần. Gặp những cách này có tội cũng tha.
17. Thiên Tam môn tìm như sau: Lấy Nguyệt tướng bầy trên giờ chiêm quẻ, chuyển xuôi 12 cung. Thấy 3 cung Mão, Mùi, Dậu là 3 cửa trời.
18. Địa Tứ hộ tìm như sau: Lấy Nguyệt kiến bày trên chi giờ, chuyển thuận 12 cung. Tìm trong thập nhị nguyệt kiến là : Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thu, Khai, Bế thấy 4 cung là Trừ Định Nguy Khai là 4 ngõ đất.
19. Địa tư môn tìm như sau: Lấy nguyệt tướng bày trên giừo chiêm quẻ, chuyển thuận 12 cung, rồi an vòng Quý nhân 12 vị, thấy 3 cung Thái thường Thái âm Lục hợp là cửa đất riêng.
20. Phương Thiên mã tìm như sau:
- Tháng 1 và 7 gặp Ngọ Tháng 2 và 8 gặp Thân.
- Tháng 3 và 9 gặp Tuất Tháng 4 và 10 gặp Tý.
- Tháng 5 và 11 gặp Dần Tháng 6 và 12 gặp Thìn.
21. Ất trên Tân là cách “Long đào tẩu”.
22. Tân trên Ất là cách “ Hổ xương cuồng”.
23. Quý trên Đinh là cách “Xà yêu kiều”.
24. Đinh trên Quý là cách “Tước đầu giang”.
25. Phục Can là cách sáu Canh trên Can Ngày.
26. Phi Can là cách sáu Canh trên Trực phù.
27. Phục cung là cách sáu Canh trên Trực sử. (còn gọi là Phục Canh)
28. Phi cung là Trực sử trên sáu Canh.
29. Đại cách là sáu Canh trên sáu Quý (còn gọi là Nãn cách).
30. Tiểu cách là sáu Canh trên sáu Nhâm.
31. Hình cách là sáu Canh trên sáu Kỷ.
32. Bột cách là sáu Bính trên can giờ.
33. Tuế cách là sáu Canh trên can Năm.
34. Nguyệt cách là sáu Canh trên can Tháng.
35. Nhật cách là sáu Canh trên can Ngày. Thời cách là sáu Canh trên can giờ.
36. “ Ngũ bất ngộ thời” tức là can giờ khắc can ngày. Như ngày Giáp gặp giờ Canh, ngày Ất gặp giờ Tân….
37. Huỳnh hoặc nhập Thái Bạch là sáu Bính trên sáu Canh.
38. Thái Bạch nhập huỳnh hoặc là sáu Canh trên sáu Bính.
39. Cương La là Địa võng và Thiên la, tức Thìn và Tuất.
40. Phản ngâm và Phục ngâm.
41. Tam kỳ nhập Mộ: Ất trên Khôn, Bính trên Kiền, Đinh trên Cấn, hay là những giờ Bính Tuất, Đinh Sửu, Ất Mùi.
42. Lục Nghi kích hình: Mậu trên Chấn, Kỷ trên Khôn, Canh trên Cấn, Tân trên Ly, Nhâm trên Tốn, Quý trên Tốn.
43. Được ba cửa cát lại gặp Không, Chế, Bách.


XEM VỀ QUAN LỘC

Trực Phù
Trực: Quan liêu phẩm trật, thăng trừ trích giáng.
Xà: Người đi vào phủ, chức tạo đình úy.
Âm: Bình Hình công Tiên xưởng
Hợp: Lại, Lễ
Câu, Bạch: tổng chế diêm chính (coi việc nuôi)
Chu, Huyền: khoa dạo thuế, thủy lợi doanh
Địa: Đông vệ có ty
Thiên: Tuần, vũ.

Trực Sứ
Hưu: Thanh, Tề, Ngô, Tấn, Hải
Sinh: U, Yên, Dương
Thương: Dự, Tống, Duyên, Tần, Hải
Đỗ: Trịnh, Kênh, Sở, Tần, Hải
Cảnh: Ung châu, Đường trị
Tử: Tần, Ích, Tấn, Thổ cốc
Kinh: Siêu nghinh, Khuyết
Khai: Từ, Lỗ, Tịnh, Ngự

Mười can
Giáp: Dốc phó. Ất: Bố chính, thư viện. Bính: Lễ khoa, Hồng nho. Đinh: đào phương (phương trốn). Mậu: khuyết khai chủ sự tất thành. Kỷ: diện tào lương trữ (thuyền muối, chứa lương). Canh: đô đốc, hình khoa. Tân: án sát. Nhâm: thanh lý ty. Quý: thủy lợi đạo.

Chín tinh
Bồng: tổng hà, tháo giang Nhậm: Thái thường, tứ sưởng
Xung: chức tạo. Phụ: hàn lâm.
Cầm: phủ thần Nhuế: khuyết sư, tổng binh.
Ương: thông chính hành nhân. Trụ: phó thân, nhung chính.
Tâm: quân thần

Chín cung
1: Hà tào diêm vận (thuyền chở muối trên song).
2: hữu ty (có ty).
3: Lễ bộ
4: tiết khí : Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu.
5: tiết khí: 4 góc Thổ.
6: Tiết khí: Dần Ngọ Tuất, Hợi Mão Mùi.
8: Diêm chính (sở muối)
9: lại Hộ Công

Môn Hộ (cửa ngõ)
Chuyển ngoài, trách Thiên môn. Chuyển trong trách Địa hộ.
Niên mệnh quan tinh gặp Môn Hộ, có Thiên đức, Thiên Ất, Thiên Mã thì thăng.
Niên Mệnh gặp Hình, Bột cách phục, quan tinh cùng Niên Mệnh thương nhau thì giáng.

Ba Giáp
Giáp Mạnh chủ: tuyển về Xuân, tuyển Thu.
Giáp Trọng chủ: tuyển Hạ.
Giáp Quý chủ: khâm thử, bộ thủy (tòa thẩm, tòa Bộ lấy)
Sao cát gặp Mở: lợi tiến lên. Sao hung gặp Đậy thì cẩn thận tham cứu.

Luận Can Chi
Can Giờ là Ấn, Can Ngày Quan
Nạp âm biên giấu phẩm trật khan (xem)
Quan Ấn sinh nhau nhiều lợi ích
Phẩm trật suy vượng kiếm thời bàn
Thương Phù, chưa biên tiến trình thế,
Thương Sử, e phương chẳng được yên
Rất sợ Triệt, Không, Hình với Mộ,
Thăng, trích, trừ, giáng có do nguyên

Luận Trực Phù
Trực Phù, phẩm trật với quan giai,
Vượng tướng hưu tù lấy ý soi,
Ai khắc, ai sinh cung canh nói (bàng cung thủ)
Tiến lui Quan Phụ xét mà coi.
Không gặp Hình, Tù và mộ, Hãm.
Tất là vinh nhậm xứng tâm hoài.

Luận Trực Sử
Trực sử xưa nay luận địa phương,
Năm hung, ba cát, đều chia khuông,
Môn hung được thế còn vui nhậm,
Môn cát, Bách, Hình bỗng khó trường (bổng lộc không lâu),
Nhàn nhọc, gần xa, tàn phế nữa,
Gặp sinh, có cát, hiên danh dương.
Lại tìm Lộc Mã xem phương vị,
Tám môn Phi Phục cũng nên tường.

Luận 10 Can
Mười can phải lụy ở trong cung,
Cung bản được thời, quyền mới xứng,
Kỳ hoặc Nghi sinh ngộ nhiều thăng tiến,
Một mà Hình Hại chắc vô công,
Đã hợp còn Hình sao có lỗi,
Tý vượng can vượng chẳng nên cùng,
Chỉ mừng Quan Phụ Kỳ Nghi vượng,
Thao tính chương vàng thỏa ước mong.

Luận 9 tinh
Chín tinh Ân khó dụng cừu chia,
Sao Ấn được thế lợi Sinh vì.
Cát hung bại k…xem liêu thuộc (bạn bè thân quen)
………………………………..
Ba phương đối chiếu tìm xung hợp
Vượng Tướng Hưu Tù vừa ý phê
Mừng được Sao Phù vượng tướng đến
Phúc ấy vừa ý thỏa lòng mê

Luận 9 cung
Chín cung đầu mối luận chuyển thiên,
Tuyển gọi tùy theo cung khởi nguyên,
Mới Cũ Đậy Chìm tính số cục,
Cả về chức sự cũng cần kiêm,
Nguyên Thủy chuyển Kim, quyền chức giữ
Mộc nguyên chuyển Thủy, bổng gia them.
Rất sợ Quan Nguyên cung tử tới,
Hình, Hại, Không, Hãm cũng nên hiềm.

Luận Môn Hộ
Môn Hộ trạm trong với trạm ngoài,
Niên Mệnh, Quý nhân, Lộc Mã cài,
Cát tinh hội hợp, thăng ngày tới,
Hung thần bách hại, quan không dài.

Luận Ba Giáp
Ba Giáp Mở Đậy có thần cơ,
Mở được tuyển lên, Đậy phải chờ.
Mạnh Trọng Quý kia, thời lệnh đoán,
Nửa Mở nửa Đậy, quái suy mà.

Luận cách cát hung
-Phản Thủ kia, giữ việc thăng quyền,
Điệt huyệt đó, thêm Năm thêm Bổng.
-Hổ cuồng thì bói nhậm không hay,
Long tẩu bước đường mòn nheo nhong.
-Được cách độn, lợi việc bổ quan,
Gặp cách giả, mũ treo ngồi trông.
-Tam trá xem, tán thưởng công lao,
Tam kỳ thấy, mừng Niên Mệnh động.
-Đắc sử mà trên dưới mừng vui,
Thủ môn được địa phương trọng vọng.
-Tam Môn, Tứ Hộ thì đừng Hình chế Mạng Năm (niên mệnh),
Thiên Mã, Tư Môn, đáng sợ Bạch, Câu ép uổng.
-Đằng xà yêu kiều, biến động có trong phương,
Chu tước đầu giang, coi chừng văn án vung.
-Phi Can, Phục can, trong khoa đao phạt nhiều,
Phục cung, Phi cung nơi dốc phú tội trọng.
-Đại cách, Tiểu cách, sĩ dân ta oán mà ngôi nhậm không đầy,
Hình cách, Bột cách, đồng liêu không ưa mà đường quan lắm vũng.
-Huỳnh nhập Bạch, tặc khấu nên phòng,
Bạch nhập Huỳnh, tai ương cố lắng.
-Niên Nguyệt Nhật Thời gặp Bột đây,
Dĩ vãng, tương lai việc thấy động.
-Ngũ bất ngộ Thời: điều tuyến khó khăn,
Lục Nghi kích hình, nơi nhậm thương tông.
-Nhập Mộ, Cương La, ngôi quan mà hiến đừng mong,
Phản ngâm, Môn bách, lối bước mà lành thực chẳng.
-Hành sử hưu tù, nhậm chưa chắc hết đường,
Mệnh viên hình hại, trở về quê khó đặng.
-Đại ước sao Nguyên, Vượng, tướng, lại được Thời, Nhật cùng soi,
Là Niên Mệnh gặp ơn cát tường, Thiên Ất dõi soi quả đúng.



XEM VỀ KIỆN CÁO

Luận Trực Phù
Phù, Xà : Họa hoạn Âm : trách phạt
Hợp : lại thuộc Câu, Bạch : đòi phạt đánh roi
Chu, Huyền : quyển văn, dối trá. Địa : tang vật.
Thiên : thượng ty.

Trực sử
Hưu : bỉ thử cùng bọn Sinh : hối lộ, lo lót.
Thương : dọa dẫm cho tan Đỗ : oan khuất khó giải.
Cảnh : văn bài chuyển rời Tử : đuổi, hò lớn.
Kinh : định tội, sợ sệt. Khai : biện bác giả mà đúng lý.

Mười can
Giáp : sinh ở Hợi Ất : sinh ở Ngọ.
Bính : sinh ở Dần Đinh : sinh ở Dậu.
Mậu : sinh ở Dần. Kỷ : sinh ở Dậu.
Canh : sinh ở Tị. Tân : sinh ở Sửu.
Nhâm : sinh ở Thân. Quý : sinh ở mão.

Chín tinh
Bồng : sao âm hiểm. Nhậm : sao chậm chạp.
Xung : sao giận ác. Phụ : sao ân xá.
Ương : sao dọa dẫm. Nhuế : sao lại.
Cầm : sao trong sạch. Trụ : sao trách móc qua loa.
Tâm : sao dọa dẫm.

Môn hộ
Nguyên cáo trách ở Thiên môn. Biện tố trách Địa hộ.
Sao cát cùng Thiên Ất sinh hợp Niên Mệnh và Can Phù thì cát.
Sao hung với Càn Bạch thương khắc Niên Mệnh và Phù, Sử 2 can thì hung.

Ba giáp
Mạnh Giáp: có sợ hãi
Giáp Trọng: dễ tan.
Giáp Quý: phòng hiểm.
Mở gặp sao cát thì thắng. Đậy gặp sao hung thì thua.

Luận can chi
Can Ngày là Nguyên cáo, Can giờ bị,
Chi ngày, chi giờ là chứng tá,
Nạp âm nơi ấy quan hỏi cung,
Khắc ngày giờ ấy Xuân văn khá,
Ngày giờ sinh hợp, kiện nên hòa,
Giờ Ngày khắc chế, được thua dễ.
Hai chi cùng hội, chứng tá gian,
Hai chi hình thương, chúng ngay lụy.
Can ngày ví thấy khắc can giờ,
Nguyên cáo to mồm nhiều ác ý.
Chi giờ ví lại khắc chi ngày,
Chứng gian mở cứng cãi lấy lý,
Can chi giờ bản thấy khắc nhau,
Văn án như mừng trông đáng sợ,
Chỉ xét nạp âm đến thế nào,
Ví thấy trợ cứu, ấy tội vạ,
Giờ Ngày hai phía định thấp cao,
Vượng tướng Hưu Tù cùng Tử Phế.
Khí Vượng chế Tù, được có mong,
Tù quay khắc Vượng, công hao phí,
Lại xét nạp âm thoát Can nào,
Cửa Đất đúng nơi và đúng kế.
Lại đem Niên Mệnh nạp âm xem,
Sinh Hợp Can Nạp không lo nữa.

Luận Trực Phù
Xem kiện: Phù là quan hỏi cung.
Cung Phù không vong (lưỡi) tham độc cùng.
Phù khắc can ngày, trách Nguyên cáo,
Phù thương Can Giờ, Bị can hung,
Xem thấy sinh ai, ai bị khắc,
Hai bên thua được: đầu mối thông,
Quan Phù đến giữa (trung cung) là loại tạp,
Quan phù vào Phụ, án kết trùng,
Phù Không lại Hãm, không chuẩn đích,
Dưới ngày xét hỏi vẫn như bưng.
Chu Xà giao khắc, văn án bác,
Âm, Lục thương (khắc) nhau, nói lung tung,
Câu, Bạch chế Can, sai dịch ác,
Thấy khi sinh hợp mới nên mừng,
Địa thuộc Ty dưới là thù đó,
Gần cửa Quan nha, đến cũng đừng,
Thiên thuộc Ty trên mà sinh hợp,
Đấu đơn, pháp luật chở che công,
Lại xét Quý âm dương ngày ấy,
Như Giáp Mậu Canh: Sửu Mùi cung,
Mà Phù Sinh Nhật tự do đó,
Dụng thần, nét chính phác vài cung.

Luận Trực Sử
Trực sử xem việc lúc ban đầu,
Theo lấy năm hành đoán nghĩa sâu.
Kim Mộc giao nhau, vì giận phá,
Thổ Mộc ghìm nhau, ruộng nhà đau,
Thủy Hỏa tung lên, gian đạo đó,
Vượng, Tướng, Hưu, Tù cố kiếm đâu,
Cát bách, trước thắng sau rồi bại,
Hung bách, lý thẳng mà khuất câu,
Phải tra hai Can xét môn bản,
Vượng thắng, suy thì chẳng phải cầu.

Luận mười Can
Kỳ, Nghi: Tử Phụ với Tài Quan,
Năm Tháng Ngày Giờ mười chữ xem xét,
Sự tích nên theo Lục thân luận,
Xét lý, giờ, Ngày quan hào can.
Thân sợ Hình, mà Can sợ cách,
Hưu, Tù nhanh chậm cũng hợp bàn,
Quỷ phải Không mà Thân phải Vượng,
Phụ nên vào Mộ, Tử đương quyền (cần được lệnh),
Rất muốn sao Ấn thân mệnh tới,
Thì chẳng cần gì phải đến quan.

Luận chín tinh
Chín tinh cần được cát tinh sinh,
Cát tinh sinh hợp chắc may lành,
Sao hung, trách phạt coi hình trượng (phạt đòn),
Can nào được sinh, nào bị Hình.
Cung bản khôngKhông, thêm Khí vượng,
Không phạm sao hung, biết rõ tình,
Ví phải sao Cô lại Tù, Nhược,
Chắc là thua được xét không rành.

Luận chín cung
Chín cung, xem kiện cũ mới tình,
Vượng chắc kiện tung, suy kiện đính.
Thoái vào sau khí, sự dĩ vãng,
Tiên về khí đến (lai khí) hưng sự nhanh,
Thủy nguyên chuyển Thổ là kết án,
Mộc nguyên chuyển Hỏa, kiện thêm sinh,
Cục bản hoàn về cục bản định,
Cục này kết liễu khỏi lo quanh.

Luận Môn Hộ
Môn Hộ chia ra Cáo với Tố,
Cáo xét Môn mà Tố xét Hộ,
Môn chẳng khắc can, nguyên cáo trình,
Hộ chẳng thương can, Tố lợi đó.
Ví mà Môn Hộ đều Cách Hình,
Khuyên ai chớ đến công môn đọ,
Môn Hộ bị chế bởi Phụ Quan,
Lại thương Niên Mệnh, tù nên sợ.

Luận ba Giáp
Xem kiện: Giáp Mạnh – việc nhiều ưu,
Ví mà Giáp trọng – tụng sẽ hưu (thôi kiện),
Giáp Quý gặp Phù – phòng mắc tội,
Mở Phù lý thẳng, Đậy buồn thiu,
Ví mà Giáp dụng không Hình Hại,
Quan tuy có giận, đơn vẫn đầu.
Nửa Mở nửa Đậy nên xét nét,
Can Giờ Ngày ấy phải nên cầu.

Luận cách cát hung
- Phản thủ, nên bên Nguyên chẳng lợi,
Điệt huyệt, nên bị cáo không may,
Hổ cuồng, Long tẩu: pháp đình đau thay,
- Được Độn: hối lộ sẽ thắng
- Được Giả: lo lót cũng hay,
- Tam thắng, tam cát ấy: cần vào Niên Mệnh đây.
- Đắc sử thì nha dịch gắng sức,
Thủ môn, nên Âm nhỏ (đàn bà và trẻ con) ương gây.
- Tam Môn, Tứ Hộ: cần ký tại Can ngày.
- Can Giờ gặp cách Bột: hằng năm tháng hết cay.
- Ngũ Bất ngộ Thời, kiện ngay đoán vẹo,
Lục Nghi kích hình: bàng hoàng sao đây.
- Nhập Mộ, La Cương: đã không nên xem kiện tụng,
Phản Phục, Môn bách, xét đi xét lại bẫy nay,
- Phù Sử Hưu Tù, tuy kiện mà không ích,
Niên Mệnh chịu khắc: thấy quan đành khoanh tay.
- Đại ước: Nói đến Quan nha, mừng được quỷ quan hưng vượng,
Lâu ngày dăng các, hào quan mong được Tuyệt nay.
- Cung Phụ hai can không khắc chế,
Kiện nào cũng giải tán, may thay.
TẬP II

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 12

XEM MƯA TẠNH

Luận Trực Phù
Phù : Chín trời Nhật Nguyệt, gió mưa sáng tối
Xà : Sấm chớp, cầu vồng.
Âm : Sương, tuyết, băng, nước đá, mây mù.
Hợp : Gió hòa, ngày đẹp.
Câu, Bạch : Trời mù, tối sầm, gió to, mưa nhỏ (tề vũ)
Chu, Huyền : Sấm chớp, trời nổ, mây đặc, mưa chút
Địa : Tạnh râm, rét buốt.
Thiên : Tạnh quang, sáng sủa.

Trực Sứ
Hưu: mây trăng, móc ngọt, lạnh lẽo, mưa nhỏ (tề vũ).
Sinh: gió cuộng cát vàng.
Thương: khí xanh chớp, mưa đá, gió mây, chớp bạo.
Đỗ: cầu vồng mỏng cụt đỏ, sấm sét
Canh: cầu vồng đỏ, gió nóng.
Tử: gió ấm, nước đá, lạnh, băng sương, sông nước trương.
Kinh: gió cuồng, sấm sét, chớp bạo.
Khai: ráng màu đẹp, sấm, mưa đá.

Mười can
Giáp: : Rồng xanh, Nhật mọc, gió lúa.
Ất : Rồng xanh, gió hòa, trời đẹp.
Bính : Chu tước, trăng mới, sáng sủa.
Đinh : Chu tước, sao cảnh, mây lành.
Mậu : Câu trận, sương mù, chướng khí, mung lung, táo thấp.
Canh : Bạch hổ, sương đặc, mưa bạo. Thu thì nhiều sương đặc. Xuân
Hạ thì mưa bạo tùy theo thời lệnh.
Nhâm : Huyền vũ, gió to, mưa lớn.
Quý : Huyền vũ, mưa sạch (khiết vũ), cầu vồng, băng đóng, khí tư,
tùy theo thời lệnh.

Chín tinh
Bồng : Mây đen, rồng xanh sẫm, mưa âm, khí giợn.
Nhậm : Sương chướng, gió cát bay.
Xung : Gió bay cát, mưa đá, tạnh, sáng sủa.
Phụ : Cầu vồng, mòng cụt, mây lành.
Ương : mây năm sắc, tạnh, ẩm, núi hết, chớp, cầu vồng.
Nhuế : khí mù, gió lốc cát vàng.
Cầm : núi hết ẩm, khí lành, sáng sủa, móc ngọt, gió.
Trụ : Gió sương, sấm sét, trăng lạnh.
Tâm : Sấm chớp, quang tạnh, ráng đỏ, khí trắng.

Môn Hộ
Tạnh ráo : trách ở Thiên môn
Hợp : Dương âm.
Tinh : tạnh mưa.
Gió mây : trách ở Địa hộ, môn hộ.
Cung : Dương Âm.

Ba giáp
Mạnh giáp : Nửa Mở Giáp Ngọ.
Giáp : Bính mở Tý Mão Quý Giáp Mậu.
Giáp Dần Đậy. Giáp Thân đều Đậy giáp.
Trọng Giáp nửa đậy Thìn giáp.
Mạnh Giáp nhiều mưa tối. Đậy mờ, Mở tạnh đổi.
Trọng Giáp, nửa tạnh mờ, Mở đậy tìm kỳ gọi.
Quý Giáp, tạnh cũng nên. Mở đậy tìm sao nói.

Luận Can Chi
Can ngày là trời, Can giờ Đất.
Nạp âm, Năm hành Âm Dương đặt.
Trời khắc đất thì gió sinh rừng.
Đất khắc trời thì khí sương cất.
Đất trời sinh hợp luận hóa thần (như Giáp Kỷ hóa Thổ…)
Kim Thủy móc ngọt, chưa tạnh thật.
Mưa nhỏ nạp âm, sinh khắc tình,
Năm hành, thời lệnh, nhìn tiêu tức.
Giả như hợp Thủy, Nạp là Kim,
Dạy rằng lúc ấy mưa gió chắc.

Luận Trực phù
Cục Thủy thì mưa, Kim lạnh lùng,
Môn Kim, Phù Thủy, mưa chút vùng,
Ví thấy Phù Kim, Môn gặp Thủy,
Rồng vào chín vực yên song đồ.
Cục Thổ rong cơn, gió lốc bùng,
Hay là gió cuốn cát vàng tung.
Phù Thổ, Môn Kim, mùa Đông lạnh giá.
Môn Thổ, Phù Kim, gió bập bùng.
Phù Môn khoảng ấy Hỏa Mộc cục,
Đất trời hòa tạnh thỏa long mong.
Cục Mộc gió sinh, cục Hỏa tạnh.
Xuân Hạ gặp phải đoán mới linh nghiệm.
Duy ngại ngày giờ Tù Mộ Phế,
Thì lại dầm mưa, gió lại đình.

Luận Trực sử
Trực sử suy tìm trong bản cung,
Vương khứ phùng sinh xét lại cùng.
Hình Chế Cách Hại Ngâm Phản Phục,
Tạnh mờ biến đổi lẽ nên thông.
Hưu Tù Tử Phế không định cứ,
Hoặc có mưa bay, gió phập phồng.

Luận mười can
Ba Kỳ, sáu Nghi ở tại cung,
Tạnh mờ, khắc ứng đem suy cùng,
Duy kỵ trái mùa Hình, Mộ cách. (Trái mùa: không được lệnh)
Thì dùng Tam hợp xét căn tông.

Luận chín tinh
Chín Tinh, Âm Dương phán tạnh mưa,
Phù tới Tuần không, bằng cứ chưa,
Sao Dương cung Dương tạnh là chắc,
Sao Âm cung Âm, mung lung chờ,
Nửa Mở, nửa Đậy, mưa kiêm tạnh,
Trong ngoài Mở Đậy, trước sau lùa.

Luận chín cung
Mưa Tạnh nghiệm tìm Thiên Ất xem,
Năm Hành xem xét nơi khởi nguyên.
Hình Cách gặp thời và chẳng gặp,
Sinh khắc Chế Phục, tạnh âm nên.
Thái Âm, Huyền Vũ mưa âm giữ,
Bạch Hổ, Lục hợp gió lay tan,
Tước Xà, sau chớp vồng mưa đá,
Câu trận sương mù gió lốc chen,
Gặp cách Nhật Thời Nguyệt Hình Bột,
Âm Dương Tinh cung mưa nắng quen,
Cửu Thiên Cửu Địa Kỳ Nghi tới,
Dương Mở, âm đậy, xét tông nguyên.
Mưa xét Kỳ Nghi, Thần hóa hợp,
Phương vị, thời khắc biết hay liền.
Bạch hổ tới Tốn, Kiền Lục hợp (Hợp tới Kiền)
Yếu khó, khỏe thì gió thổi rền.
Tước về Khảm vị, Huyền Ly tới,
Chủ hơn Khách hẳn mưa tất nhiên.
Duy có Thái âm và Cửu địa,
Hoặc mưa hoặc tạnh luận cung miền.

Luận Môn Hộ
Tam môn, bát cung chia Âm Dương,
Kỳ Nghi nào đến xét cho tường.
Dương môn, Dương Tinh ba Kỳ hội,
Đoán rằng ba Sáng lộng muôn phương (ba sáng:Trời trăng sao)
Âm môn Âm tinh ba Kỳ hội,
Thì bấy giờ trời kém tỏ tường.
Nhật Nguyệt Tinh Kỳ Thiên Môn chiếu,
Kiền Tốn trung cung sáng sủa lường. (kiền tam quang)
Mưa gió thần Nghi sao Âm hội,
Lại thêm Lục hợp, Âm một trường,
Địa tứ Hộ mà cung Âm gặp,
Sáu Nghi đến đó, gió mưa cường.
Ba Kỳ, sao Âm gặp Địa Hộ,
Ba sáng làm sao chiếu nổi đường.

Luận ba giáp
Tam Môn cát hung chia Âm Dương,
Nên xem Mở Đậy xét suy tường.
Còn xét Can Sao Phù Sử nữa,
Hội với thời trời đoán rõ ràng.

Luận cách cát hung
- Điệt huyệt thì tạnh, Phản thủ mưa tràn.
- Triền tới cung Dương mới tạnh, rời gót cung âm mưa lan.
- Bạch hổ xướng cuồng, gió bùng ngay đến,
- Thanh long đào tẩu, mưa tới băng ngàn.
- Xà yêu kiều, mây dày bao bọc.
- Tước đầu giang mưa tới chứa chan.
- Huỳnh nhập Bạch, cầu vồng mống cụt.
- Bạch nhập Huỳnh sấm chớp lan man.
- Canh gặp cách tỏ mờ luôn đổi.
- Nhật Niên cách, mưa chớp không tan.
- La Cương, Tứ trương, cho hay khắc nơi u ám.
- Thời Nhật sinh khắc, đúng là mưa tạnh gốc nguồn.

Lại đoán
Muốn xem tạnh nên luận Phù, Thiên, Chu, Xà, Câu, Bạch các thần ấy cùng với tám môn là Sinh Cảnh Tử Đỗ và chín tinh là Cầm Bồng Nhuế đều khởi nguyên ở Hỏa Mộc cục; Ba kỳ được vị. Mậu Kỷ gặp thời, sao Dương Mở thì chủ tạnh.
Muốn xem mưa, nên xét Địa Âm Huyền Bạch các thần ấy với tám môn là Hưu Kinh Khai Thương, chín Tinh là Bồng Trụ Tâm Xung đều khởi nguyên ở cục Kim Thủy, ba Kỳ vào Mộ, Canh tân Nhâm Quý gặp thời, sao Âm Đậy thì hẳn mưa Âm.

XEM THÂN MỆNH
Trực phù
Phù: mở đầu khí khái, hung vĩ, dê che da hổ.
Xà: miệng thực sợ hãi, gian nịnh, tâm độc, ủy khúc, uyển chuyển.
Âm: kẻ tiểu nhân, tính ngầm (ám toán), trầm ngâm, bỉ ổi, hèn mọi, mưu sâu, lo xa.
Hợp: vời đón bạn bè hòa vui, hiền lành, dễ cảm động.
Câu, Bạch: gặp nhiều khó khăn, quả cảm nắm giữ, trên đường kinh sợ, hung dữ, nắm quyền.
Chu, Huyền: kiện cáo, tai tiếng, khéo cãi nên lời, nên phòng gian ngụy, dối trá, hiểm tà.
Địa: nên phòng hiểm trở, thâm cơ, đại độ, âm hiểm khó lường.
Thiên: ra ngoài, đổi hướng, hiên ngang, không chật hẹp, hư trương thanh thế.
Trực sử
Hưu: lợi yết kiến, an táng, cố chấp, việc khuất mà thân.
Sinh: lợi kinh doanh, an táng, giữ thời, kêu thì người sợ.
Thương: lợi săn lưới, gặp hung tổn, trước tổn thương.
Đỗ: lợi ngăn đón, yên phận giấu mình, lặn mình bí mật.
Cảnh: lợi dâng thơ, lợi gặp người trên, tin tức văn thư lợi.
Tử: phòng chết thắt cổ, thu cất hang hóa, viếng tang, hành hình.
Kinh: Lợi kiện cáo, nổi tiếng tăm, mòn mỏi sợ hão.
Khai: Lợi đi xa, đồ mưu xa xôi, mưu doanh, khai trương cửa hàng.
Mười can
Giáp: như bậc cha, anh, thầy, người cao, quân tử.
Ất: như dì, cô, em gái, thầy tu, thuật nghề.
Bính: con cháu, ngoài tự, nhà thơ khách bút.
Đinh: cháu gái, bà mối.
Mậu: vợ lẽ.
Kỷ: vợ cả, hầu gái, người làm ruộng, học trò, thợ thuyền.
Canh: Ông, tướng soái, hiệu trong quân.
Tân: Bà, thợ gạch ngói, sư ni.
Nhâm: khách lang thang, bà mụ đỡ, lái thuyền.
Quý: Mẹ, dì, tham mưu, bác sĩ.
Chín tinh
Bồng: Râu, mày, béo thô, dũng mãnh, trầm trệ.
Nhậm: lùn, khập khễnh, dối trá, đồng bóng.
Xung: nam vẻ thanh kỳ, khéo biện bác.
Phụ: thanh tú, vui hát, văn nhã, hòa thuận.
Cầm: đoan chính, hiền thục, cẩn thận, trung lương, chính trực.
Ương: mặt đỏ, râu xanh, tóc thưa, tàn nhang, trán thót.
Nhuế: đen lùn, béo bệu, câu chấp, nhẫn nại.
Trụ: cao lớn, hung hổ, cường bạo, hiểm ác.
Tâm: tai to, mặt lớn, má phính, quả đoán, khéo nói.
Chín cung
1: được thời, tài danh đều đẹp. Không được thời, phong lưu lãng tử.
2: được thời, giầu có. Không được thời, bô ba.
3: gặp thời, thông minh trí trá. Không gặp thời, có thủy không có chung.
4: Tiết: 4 góc Thổ. Khí: 4 rốn Thổ.
5: Tiết: 4 góc Thổ. Khí: 4 rốn Thổ.
6: Tiết: Dần Ngọ Tuất. Khí: Hợi, Mão, Mùi.
7: gặp thời, oai danh phục người người. Mất thời, hình khắc, hiểm ác.
8: Gặp thời thì hay. Mất thời thì nặng nề.
9: Gặp thời: thanh tú bút mực. Mất thời: thợ khéo, mưu nguy.
Môn Hộ
Vinh quý trách thiên môn. Phú hậu trách địa hộ.
Môn Hộ: Hợp: Dương nam. Cung: Dương Âm.
Tinh: được mất. Lệnh: hiên ngang, cận quý, gian hiểm, tiểu nhân.
Ba Giáp
Mạnh Giáp: Nhiều khẳng khái.
Mở: chủ vũ khôi (đầu hang võ).
Đậy:chủ gầy cao, hoặc thấp mệt.
Trọng Giáp: Nhiều cao trọng.
Mở: chủ phiêu đãng.
Đậy: chủ hình hại, hoặc tăng đạo, nghệ thuật.
Quý Giáp: nhiều đôn hậu.
Mở: chủ hình xung.
Đậy: chủ bủn xỉn, cô độc.
Luận can chi
Can Ngày là Thân, Can giờ Mệnh.
Nạp âm, trong ấy, vận khí định.
Thân không thương khắc, tốt lành thay,
Nạp âm sinh phù, sự nghiệp sính.
Được hóa được thời, không hình thương,
Người này danh vọng, người tôn kính.
Rất sợ Thân Mệnh gặp Hưu Tù,
Tổ nghiệp ngày nay không chút đỉnh.
Nạp âm, Thân Mệnh Mộ nên lo,
Thành việc không đâu, thọ non cảnh.
Luận trực phù
Trực Phù luận người, Trực Sử việc.
Mười can, nhân vật là tính tình.
Chín cung khởi nguyên luận lai lịch.
Môn Hộ Mở Đậy, sự nghiệp vinh.
Năm Tháng Ngày Giờ rành Niên Mệnh.
Cung lạc về đâu nên rõ rành.
Quá khứ, tương lai với thời định.
Tử Phụ Tài Quan các phận quanh,
Đại phàm Trực phù vào không đó,
Suốt đời sự nghiệp không đợi thành.
Niên Mệnh lại sa biệt cách Mộ,
Đáng ngại đường đi ngắn lộ trình,
Năm Tháng Ngày Giờ Can xét tiếp,
Đáng mừng khi thấy không có Cách Hình.
Ví có một can rơi yếu kém,
Phần này gốc quả chịu mong manh.
Luận Trực Sử
Trực Sử xưa nay xét việc làm,
Được sinh vào Vượng đáng nên ham.
Ví rơi Hình Hại thêm Mộ cách,
Khó được vừa lòng, việc nhở nham.
Sau đến xét xem trong Niên Mệnh đóng,
Rồi đến bốn can, Môn Hộ ngàm.
Năm hung, ba cát và Không Phế,
Hay dở trong đây biết khả kham.
Luận mười can
Chín xứ Kỳ Nghi tựa sáu Thần,
Đều nhìn cung khởi, biện lai nhân
Trực Phù, cung nguyên, Thời nguyên vượng,
Được Phù, được Sử hưởng lợi phân.
Luận chín tinh
Tự cổ chín sao xét tình hình,
Năm hành tùy thuộc khảo Hy kinh.
Cô Hư vượng tướng cùng Niên Mệnh,
Xét riêng từng loại tự thông linh.
Luận chín cung
Chín cung khởi đầu khảo hệ phái,
Hỏi cục gặp thời nhiều quý nói.
Từng loại, dụng thần xét ở cung,
Phép làm, hung phế, số trong hỏi.
Nên xét Kỳ Nghi chia tám quái,
Cung rơi Mộ Tuyệt luận nhân thân,
Niên Mệnh đáng mừng ba sáu tới,
Đoán rằng nhân vật hay bội phần.
Luận ba Giáp
Tam môn, Tứ Hộ hợp Dương: Mở,
Niên Mệnh gặp đây, hiển tất có.
Ví không gặp lệnh (được thời) Âm Đậy thêm,
Việc làm có khéo không khôn nọ.
Luận cách cát hung
*Đằng xà ngậm kim miệng mép lo,
Chớ sa vào nước, tai họa to.
Thái âm thể ấy cho người thẹn,
Lục Bạch sang Tây, mưu chớ thò.
Cầu quơ vào Mão, việc công nhiều,
Vào Cấn Thân Canh môn hủy chờ.
*Bạch Hổ: Trụ Đinh ngậm dao đáng sợ,
Chu tước Đỗ Cảnh, huyên náo nên hiềm.
*Huyền vũ trong Kiền, sống không trọn kiếp,
Cửu địa, Đỗ, Tử chết chóc im lìm.
*Cửu Thiên Sinh Khai, rừng mây biến hóa,
Giáp Ất Xuân nở, Bính Đinh hè lên.
*Mậu Kỷ bốn quý, Canh Tân Thu kim (Tân: sách viết là Thân)
Nhâm Quý Đông hủy, đều phát đạt thêm.
*Những bậc siêu quần, đều mang nạn khổ,
Ví: Giáp được Kỷ mà trung chính nên khen,
Ất gặp Canh cứng mềm chung gắn,
Bính hợp Tân mà oai thị
Đinh thấy Nhâm mà nhũn nhặn,
Mậu Quý gan cương, không thèm nhỏ nhắn
*Tám cung hò hựa, người tốt đáng ưa,
Mọi cung chia bè, bỉ thô nên ngán.
*Trong Hợp Hình có, tốt đủ thì chưa,
Hung không, cát thực vui tràn không ngán.
*Tới chốn sinh nhau, tránh nơi khắc hận.
Năm Tháng Ngày Giờ, xét thêm tuần vận,
Được: Long phản thủ nên sự nghiệp đẹp thay,
Điểu điệt huyệt mà thanh danh dương hiển.
Được Độn mà quyền biến so tài,
Gặp Trá mà tự xoay thế lần.
Đắc Sử được giúp đỡ bên ngoài,
Thủ môn tất ra vào thông tấn.
Ngũ giả nên mộng mẹo xa đời,
Tam thắng ấy dạ gan vượt bạn.
Yêu kiều mà làm việc hư kinh,
Đầu giang bị văn thư mất bản.
Phục can tài vật mất đi,
Phi can cậy cường thương bận.
Phục cung trộm cắp nên phòng,
Phi cung sự nghiệp mang hận.
Đại cách, tiểu cách mưu kế ra gì,
Hình cách, Bột cách, trong sinh tai nạn.
Bạch nhập Huỳnh, phòng giữ giặc ngoài,
Huỳnh nhập Bạch, kẻ thù vong hẳn.
Long đào tẩu, tai nạn phòng thân,
Hổ xướng cuồng, việc làm vớ vẩn.
Ngũ bất Ngộ, trật vật công toi,
La Cương trương, ra vào phải oán.
Lục Nghi kích hình, đều chạm hung tai,
Tam Kỳ nhập Mộ, mưu đồ…cạn.
Phản ngâm, Phục ngâm rên rỉ thâu đêm,
Cát hung Môn Bách, không may vương vấn.
Thiên Mã cát môn lâm mệnh địa,
Đời sông cảng hải, vương chẳng bận.

Lại quyết
Phàm xem tạo hóa nên xem Bản mệnh ấy là năm nào, thuộc quái khí nào, có gặp thời hay không gặp thời, để đoán cát hung trọn đời.
Rồi đến nạp âm của Can Chi bản Nhật, nạp âm của Can Chi giờ chính, sinh vượng khắc chế ra sao để đoán dưới mắc sự nghiệp hưng suy.
Trực Phù khởi nguyên cung nào? Nguyên thuộc bản cung Thần nào, đến nay hành quái nào, vượng tướng sinh khắc ra sao? Tử ấy vào Phụ viên, Thiếp nhường ngôi Thê, từ đó châm trước, tự được tin hao.
Lại xem Trực sử để định việc làm ăn trước mắt, hội hợp Niên Mệnh để xem biến hóa thần diệu ra sao? Như Cha xem cho con thì xem nơi trọ của con. Chồng xem về vợ thì luận thần thê, xem là tinh nào để xét tâm sự nhân phẩm. Lại xem thêm Môn Hộ mở đậy, ba giáp Âm Dương thì tự biết được cơ huyền diệu.
XEM KHOA THI
Nhật can chính thực sĩ đi thi,
Thời can chủ khảo luận trong khi.
Chi Nhật, văn chương, kỵ Hình Hại,
Chi giờ, trường ốc kể vào đề,
Nạp âm trong ấy tra xem đủ,
Đậu trượt, liệt ưu biết được kỳ.
Vượng tướng sinh hợp là triệu cát,
Hình Tử Công Triệt có ra gì.
Nhật sinh chủ khảo, nên lo lót,
Chủ khảo sinh Nhật, phải thẳng vì.
Văn chương lại hợp cùng Chủ khảo,
Danh thơm dậy đất tiếng vàng phi. (bay)
Dụng kỵ thời nạp rơi Hình Chế.
Đáng ngại: cỏn con bỏ sót đi.
Hại chi cũng sợ cùng Hình Hại,
Thương Kinh tẩy xóa cần tâm suy.

Luận trực phù
Thi cử trước tiên luận Trực phù,
Được sinh hợp mới mong tiền đồ.
Chủ bạch sinh thân, tên cao chiếm,
Câu Xà Hình Hại, quyển mơ hồ.
Niên Mệnh nhật nguyên cửu thiên vị,
Hoàng đế đắc ý nghe truyền bố.

Luận trực sử
Trực Sử luận môn có trước sau,
Khai gặp cửu thiên bút ngự châu.
Đỗ nhìn Cửu địa ngoài non Tôn,
Cửa Cảnh mà nhìn chẳng được câu.
Đại ước dung môn không Hình Cách,
Bên bàng nhiều cát Phó bảng cầu.

Luận mười can
Kỳ Nghi dụng Thần sợ Hình cách,
Phi Phục cung theo cùng suy trắc.
Tam kỳ họp mặt trong Mệnh Niên,
Về triều hẳn là Kim Bảng khách.

Luận chín sao
Sao Phù lặn mọc sợ Cô Hư,
Thời trái, Kích, Hình, than thở trừ.
Vào Phụ, vào Quan, Thân phải vượng,
Dâng thư, hiến kế đợi ơn chờ.

Luận chín cung
Khởi đầu chuyên khảo Phi Phục cung,
Yến Phi Vượng Phục, sẽ theo rồng,
Quan Phụ giao nhau nhiều đắc ý,
Tỷ thoát mà nhìn sợ lạc Không.

Luận Môn Hộ
Sắp treo bảng yết, xét Thiên môn,
Cát tinh sinh hợp: đường mây tôn.
Vào trường khi ấy tìm Địa hộ,
Thời hợp sinh Quan đậu chắc hơn.

Luận ba Giáp
Ba Giáp chia ra tiền hậu Trung,
Dương mở, tinh cát sinh Thần cung.
Được thế thì rằng danh phận đủ,
Chỉ nhờ Giáp vị giữ kỳ trung.

Luận cách cát hung
-Phản thủ, điệt huyệt, không vết mới được thành danh,
Hổ cuồng, Long tẩu, có thương làm sao tiến bộ.
-Thiên độn, Nhân độn, là thời gặp gỡ Rồng mây,
Hổ độn, Long độn, là buổi cung Thiềm bẻ quế.
-Đều phải điền hợp Niên Mệnh Dụng can,
Mới đoán được rằng: Thiên cù đắc lộ (đường trời gặp bước)
-Tam Trá, ngũ Giả, bước đầu lận đận mới hanh thông,
Đắc sử, Thủ môn, phải có dìu dắt rồi đắc ý.
-Nhân nguyên rất sợ Hưu Tù,
Môn Hộ kỵ thương Phù Sử.
-Thiên mã mà cưỡi lưng Chu,
Ven trời N.. Phong bước đó.
-Yêu kiều nên bài vở lạc đề,
Đầu giang mà quyển văn sót bỏ.
-Phục can, Phi can, sợ rằng sinh biến trong trường,
Phi cung, Phục cung, cũng sợ thi xong họa nó.
-Cách cách, bước tiến trở ngăn,
Hình Bột, chữ dùng phòng hở.
-Huỳnh nhập Bạch ấy, nhìn bảng không tên,
Bạch nhập Huỳnh kia, dương danh cũng khó.
-Bất ngộ thì hiến kế không công,
Kích Hình thấy tiếp theo hoảng sợ.
-Nhập Mộ, Cương La, Niên Mệnh cát, tên đề còn có thể mong,
Phản Phục Môn Bách, vào thi đây, giày trói e rằng phải vớ.
-Thiên Ất Lộc Mã gặp cát thời,
Đến sinh Niên Mệnh, bay nhẩy có.

XEM CẦU TÀI
Nhật nguyên là Người, Thời nguyên là Tài,
Hai chi trong ấy, nợ vật đòi.
Nạp âm trong ấy định giá chợ,
Cô Hư Vượng Tướng lượng tài bồi.
Nhật khắc Thời thì tài sẽ đến,
Thời khắc Nhật thì uổng sức hoài.
Hàng mua Chi Thời chia Quý Tiện,
Sinh hợp Nhân nguyên sẽ có lời.
Hàng bán Nhật chi Hưu với Vượng,
Mừng được sinh Chi lại tác Tài.
Nhật nạp ví bằng khắc Thời nạp,
Lời gấp đôi ba, chính thị thời.
Thời nạp mà khi khắc Nhật nạp,
Uổng phí tâm cơ, dạ chẳng hài.
Mọi việc đồ mưu về nghệ thuật,
Mong được thời sinh Quỷ hóa Tài.
Đại để dưới trên Hình Hại vắng,
Trước sau như ý chẳng đơn sai.
Đòi nợ, bắt người kia chịu chế,
Chi nạp sinh Can có thể đòi.

Luận Trực phù
Trực phù hàng hóa giao dịch tình,
Hoặc sinh, hoặc Vượng, Hưu Phế Hình.
Hàng bán sinh vượng, lời khách bán,
Hàng mua Hưu Tù nên mau thành.
Lục hợp người trung kỵ hưu khắc,
Câu mà thương Dụng việc không nhanh.
Huyền Tước thương Nhân, phòng mất mát,
Sợ còn hỏng, nát, giả khôn phanh.
Cửu địa sinh Thân nên tích trữ,
Cửu Thiên sinh hợp, bán tâm hanh (nửa lòng hanh)
Được khiên tay không đi kiếm lợi,
Cùng mừng Phù vượng lại tương sinh.

Luận trực sử
Trực sử cầu tài xuất nhập phương,
Môn không thương khắc, lợi yên vương.
Cát môn tới xứ sinh và vượng,
Lưng mang ngàn vàng có thể đương.
Ví được Môn ấy là Tài ấy,
Đi buôn, ngồi bán đều nhẹ nhàng.

Luận mười can
Kỳ Nghi nên được Tử và Tài,
Tử vượng, Tài sinh, dạ được hài.
Rất ước kho Tài vào Thân Mệnh,
Giờ Ngày được thế xứng tâm hoài.

Luận chín tinh
Phù tinh mừng vượng chế Tài tinh,
Tài tinh Không Vượng, uổng công trình.
Tài tinh hóa Quỷ, đừng đi kiếm,
Quỷ hóa ra Tài, tay trắng tinh.
Ví lại bay vào đất bạn hữu,
Nơi này tất có sự tranh giành.
Tài tinh ví thấy chui vào Tử,
Ta đến phương này tất được thành.

Luận chín cung
Đầu tiên nên biện ấy Tài nào,
Thổ là vải, tiêu, lúa, muối chào.
Thủy Mộc bán buôn, hỏa gạch ngói,
Kim là tiền lúa, châu ngọc giao.
Thời Nhật hội nguyên sinh vượng thấy,
Hẳn được vừa lòng toại ý nao.
Ví có Phi Phục vào nơi ấy,
Tiện xét từ đâu, biết việc sau.

Luận môn hộ
Môn Hộ không nên cướp đến tài,
Sinh trợ cung tài, mới được hài.
Phù nguyên mà chế Môn Hộ trốc,
Sâu nước bay về đậu của ai.

Luận Ba Giáp
Mạnh Giáp thì nên đi cầu tài,
Trọng giáp nửa mừng dạ được hài.
Quý Giáp mong cầu, cầu chẳng được,
Mở Đậy trong đây Được Mất cài.

Luận cách cát hung
-Phản thủ, điệt huyệt, dơ tay là được,
Hổ cuồng, Long tẩu, uổng sức đón đưa.
-Được cách độn, cơ biến mà có,
Gặp Giả Trá, thiết kế cầu vừa.
-Đắc sử, hỏi nhờ người giúp sức,
Thủ môn nên ngồi bán hay chờ.
-Tam môn, Tứ hộ sinh hợp Tài thần rất tốt,
Thiên Mã, Tư môn, Hình xung Phù Mệnh thì thua.
-Yêu kiều thì tình người phản phúc,
Đầu giang nên buôn bán có chừ.
-Phục cung, Phi cung đất ấy không bằng đất khác,
Phục can, Phi can, người này khôn sánh khách kia.
-Đại Tiểu cách khó lòng kiếm lợi,
Hình Bột cách, thân sớm đưa lùa.
-Huỳnh nhập Bạch, thì mua hàng được,
Bạch nhập Huỳnh, thì bán chẳng thua.
-Bất Ngộ Thời không phí tâm lực,
Nghi kích hình, nơi ấy cầu thừa (chẳng nên cầu)
-Nhập Mộ, Cương La, trông thấy lợi mà không sờ được,
Phản Phục, Môn Bách, long vẫn mong mà nước loạn không chừa.
-Cần nhất Nạp Phù Nguyên, ba tài hợp thức,
Không gặp quỷ cướp mới nên cơ.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 13

XEM VỀ NGƯỜI ĐI XA (Chiêm hành nhân)

Luận can chi
- Suy chắc người đi, về chẳng về,
Nhật Thời đủ biết khách giang khê.
Thời nguyên sinh hợp Nhật nguyên thấy,
Chờ chế Chi ngày, đón ngựa xe,
Mừng được Thời Chi là Nhật Mã
Nhật Chi hợp Mã là quy kỳ.
Ví bằng Thời Mã là Chi Nhật,
Chờ Mộ Chi Can, biết lúc quy.
Rất kỵ Triệt Không với Hình Mộ,
Tử Tuyệt, không tăm, ngóng đợi chi.
- Nhật âm Thời Nạp, ở hay đi?
Nạp âm sinh hợp: lên đường chi.
Thời âm đến khắc Nhật can nạp,
Vũ lăng đã đón khách giang khê,
Can nạp khắc chế Dụng thời nạp,
Đã muốn động thân lại ngại nghi.
Cũng phải nghiệm xem cung dịch mã,
Tam hợp Nhật thời ấy đâu quy (Tam hợp là ngày quy)

Luận Trực Phù
Trực phù suy nghiệm luận người xa.
Vượng tướng mà sinh, hớn hở ca.
Hình Mộ Hưu Tù vừa ý khó.
Không vong cho khách nhớ quê nhà.
Chu Xà Câu Bạch mà vào khắc,
Trì trệ và nhiều miệng tiếng qua.
Huyền vũ Thái âm sinh hợp thấy,
Chắc rằng âm tiểu (đàn bà con trẻ) buộc chân mà,
Ngũ Mã mà đầu Thiên với Địa,
Chênh vênh, vó ngựa ruổi không xa.

Luận Trực sử
Trực sử suy nghiệm đoán hành tung,
Môn hợp lai phương, về, ý, mong.
Duy kỵ Hình Thương và Đỗ Tử,
Hình cách, Bách Phục, chân về cùng,
Khai Hưu Sinh Cảnh trên Thiên Mã
Lại tới Can Phù, Mộ đón trông (tới ngày Mộ thì về)

Luận mười can
Mười can xem để ngóng người thân,
Dụng thần trên Mã, về tới sân.
Mã trở Quan Đông về chẳng được,
Mã xa Sơn cốc thấy nhau gần.

Luận chín tinh
Chín tinh Nam Bắc với Đông Tây,
Đến Vượng vào Thân, khó về thay,
Vào Mộ, thêm Tỷ, về đang định,
Trước đường Không Tuyệt tất về ngay.

Luận chín cung
Bạn đâu hãy hỏi đi phưong nào?
Rồi xem bản cục xét xem sao.
Lại kiếm tìm hào Phụ mẫu giúp,
Cung này, ngày ấy, đón nhau chào.

Luận Môn Hộ
Môn Hộ cần hợp Phù với Môn,
Nhật Thời Dịch mã vết chân bon.
Xét rằng bay đến thân nào đó,
Tìm Hợp là khi vó ngựa chờn. (Hợp là ngày về)

Luận Ba Giáp
Người đi, Mạnh đậy, chưa lên đường.
Trọng Mở cho hay đã thắng cương.
Quý Giáp Mở là người đã đến,
Xem trong Giáp ấy Môn nào vương.
Cần được Can Chi Ngày Giờ Môn Phù trên Mã, tới Mã. Lại tra xem loại thần người đi cùng với Niên Mệnh tương sinh, tương hợp, mà trong Giáp Môn có Mở, không Đậy thì chắc chắn là có về.
Luận cách cát hung
-Phản thủ, Điệt huyệt, đã sớm sắp sửa hành trang,
Còn chuyện chậm mau, lẽ phải tham nghiên hình hợp.
-Hổ xướng cuồng, dung dằng nán lại mà ở luôn.
Long đào tẩu, chật vật không về dù chán bóp.
-Cách Độn hợp Thời Nhật, đều có thể nói là về,
Trá Giả hội Bạch Hổ Chu Xà, tin thư tới lớp.
-Xà yêu mà đường sá dịch tai,
Đầu giang mà kẻ về hoảng hốt.
-Phi Can, Phục Can chẳng đậm tình về,
Phi cung, Phục cung, khách đã xa vút.
-Đại Tiểu cách nên ngày tháng dây dưa,
Hình Bột cách, đó đây thường đã vấp.
-Bạch nhập Huỳnh, thấy chăng lữ khách đang về,
Huỳnh nhập Bạch, hẳn biết tin thơ còn sót.
-Bất Ngộ thì trông đợi làm gì,
Kích Hình có việc đang vướng vất.
-Nhập Mộ thương vang, có thể trông chờ,
La Cương cách này, về làng hãy khất.
-Phản Phục, Môn Bách, nên chia lữ khách xa gần,
Ví hợp Dịch Mã lâm Quan, chắc hẳn người về được gặp.

XEM RA ĐI (Xuất hành)
Luận can chi
Nhật nguyên là người, Thời nguyên Đất,
Nguyên người khắc Đất, đi lời chắc.
Nguyên Thời lại khắc Nguyên Người kia,
Phương đến không mong ai giúp.
Thời nạp là nơi xét giữa đường,
Không hại nguyên Người, cương ngựa thúc.
Ví lại đến sinh nguyên Nhật thêm,
Chưa tới địa đầu, lợi đã chất.
Rất kỵ Triệt Không với Hại Hình,
Dùng dằng khó định, tiến lui mất.

Luận Trực phù
Ra đi đường phải Vượng và Sinh,
Lục hợp là người khách bạn hành.
Chớ có đi cùng Câu, Bạch đó,
Tước Xà miệng lưỡi thở hôi tanh.
Cùng là Huyền vũ, phường trộm cắp,
Trước sau đều kiêng, tới lợi nhanh.
Địa âm khắc chế, đường nhiều dữ,
Cửu Thiên sinh hợp, đi lợi thành.
Luận Trực sử
Ra đi, trực sử rất nên trọng,
Bay đến không thương, là lợi dụng.
Bản môn khởi sự quái nào đến,
Bay đến Hợp Sinh, người xu phụng
Trong thấy Dụng Không, lối đất không,
Phản Phục Bách cách cùng Hình Xung.
Khởi hành không được, chạy không phương,
Khuyên ái đi bói nơi nào đúng.

Luận mười can
Kỳ Nghi chuyên xét về Lục Thân,
Quán trọ phong trần cùng với người.
Mưu việc hào Tài nên đến đậu,
Cậy nhờ, hào Phụ phải nhờ ân.
Kiêng hào Quan với sa Hình Cách,
Tới địa phương là xe đổ lăn.

Luận cách cát hung
-Cách cát trăm việc đều cát,
Cách hung trăm việc đều hung.
-Yêu kiều phòng miệng lưỡi
Đầu giang đi xa đừng.
-Phụ can, Phi can, sau trước đường trường đều có biến,
Phục cung, Phi cung, đêm hôm quán trọ phải phòng ương.
-Đại cách, Tiểu cách, xe thuyền phòng giữ.
Hình cách, Bột cách, trộm cướp gây thương.
-Huỳnh nhập Bạch, lửa gian lưu ý,
Bạch nhập Huỳnh: xe phủ đề phòng.
-Bất Ngộ kia đi xa thì chớ,
Kích hình ấy đừng sắp hành trang.
-Nhập Mộ, La Cương, chớ có dấn thân vào đất hiểm,
Phản Phục Môn Bách tiến thoái đều gặp khó.
- Vội vàng cần phải cầu Phù Sử hiệp cát,
Trợ nguyên, không ngại lên đường.

XEM NHÀ CỬA (gia trạch)
Trực phù
Trực: nhà hướng Cấn Sơn.
Xà: hướng về tiểu tỳ, khe, kênh.
Âm: nữ tỳ.
Hợp: con gái, huynh đệ, bạn bè.
Câu, Bạch: nô tỳ, đường xá.
Chu, huyền: phường du đãng, miệng lưỡi, trộm cắp, tiểu nhân.
Thiên: Minh đường.
Địa: thời thấy (phòng đang ở).

Trực sử
Hưu: Nhà hướng Khảm, cổng ngõ.
Sinh: Nhà hướng Cấn, cổng ngõ.
Thương: Nhà hướng Chấn, cổng ngõ.
Đỗ: Nhà hướng Tốn, cổng ngõ
Cảnh: Nhà hướng Ly, cổng ngõ
Tử: Nhà hướng Khôn, cổng ngõ
Kinh: Nhà hướng Đoài, cổng ngõ
Khai: Nhà hướng Càn, cổng ngõ.

Mười can
Giáp: cột xà.
Ất: xà cột, phúc tới, cửa Đông sụt đổ.
Bính: Hương hỏa đường.
Đinh: Nhà bếp khuất vẹo.
Mậu: tường nhà, phòng viện.
Kỷ: đến ở, giếng trời, phòng ốc.
Canh: người nhà, qua đường, nối ranh.
Tân: cửa tròn, cửa sổ, búa, xanh.
Nhâm: ngõ nhỏ, cánh cửa, giếng nước.
Quý: cửa ngõ sau, nhà xí.

Chín tinh
Bồng: Phòng ốc, đình, viện thân, trai nhỡ, phj nữ.
Nhậm: Trai nhỏ, đạo sĩ, đường đi.
Xung: Trai cả, người đứng mối, cổng, cửa sổ, quán.
Phụ: gái cả, tăng ni, đỉnh, cái sọt.
Ương: gái nhỡ, nhà trên.
Nhuế: người già, đường đi, giếng, viện.
Trụ: gái nhở, mở cổng, cha, chú, nhà xí, gác.
Tâm: tường.
Cầm: mẹ, dì, nhà trên.

Chín cung
1: được thời: sửa sang nơi ngoắt nghéo cho đẹp.
Không được thời: cao thấp lệch lạc.
2: được thời tròn thoáng.
3: được thời cao thấp, viện trung đại khá, đường thấp.
4: tiết: Thân Tý Thìn, khí: Tỵ Dậu Sửu.
5: tiết: 4 góc thổ, khí: 4 rốn thổ.
6: tiết: Dần Ngọ Tuất, gần cầu ao. Khí: Hợi Mão Mùi, gần cầu.
7: được thời: 4 mặt có viện vây. Không thời: lõm xuống, phá bại.
8: Không thời: nghiêng đổ, lồi lõm.
9: được thời: thẳng vẹo mới tươi. Không thời: suy, gẫy giữa.

Môn Hộ
Chu Bạch kỵ lên Thiên môn
Câu Huyền kỵ ngồi Địa hộ
Môn Hộ: hợp đường âm
Tinh: Vượng tướng: cung nhà ở, mái nhà.
Hưu Tù: hiên ngang.

Ba giáp:
Mạnh giáp: cửa trước ra đường, Mở thì sáng sủa, vượng. Đậy thì siêu vẹo, lấp tức, vỡ lở.
Trọng giáp: cửa giữa trên thềm, Dương Mở thì chỉnh tề, âm đậy thì phá vỡ.
Quý Giáp: cửa sau, tường, Mở thì ngay ngắn, sáng sủa, mới mẻ. Đậy thì phá tổn nát.

Luận can chi
Nhật can là Người, Thời can là Nhà,
Người Nhà sinh nhau, nhiều lợi mà.
Người khắc Nhà kia, có thể ở,
Nhà khắc Người thì ở khó quá.
Nạp âm sinh khắc hình xung có,
Thì họa phúc tìm niên mệnh tra.
Trực phù ví thấy sinh ta đó,
Mừng rỡ hơn ai: phúc đến nhà.

Luận Trực phù
Xem thấy Trực phù gặp phế hưu,
Buồng nhà, thân quyến bị tiêu điều,
Phi cung trên dưới không thương hại,
Mới cũ trước sau ý được chiều.

Luận trực sử
Trực sử xưa nay sợ Bột Bách,
Khắc Nghi, vào trạch và Phản Phục.
Thủy Mộc phiêu lưu, Hỏa Kim lao,
Thổ gặp hình thương, tai dịch mọc.
Kim Thủy hình tù lộ phong thanh (tin tức),
Mộc Hỏa bậy cuồng, phòng hết lộc.
Khai Đỗ Sinh Tử vị không tươi,
Định rằng hướng cửa cần thay trục.

Luận Mười can
Ba Kỳ sáu Nghi bay đến cung,
Gặp Sinh được Vượng tất hưng long.
Hình Mộ Không vong Bột Cách Hại,
Hay dở theo đây đoán định cùng.

Luận chín tinh
Chín tinh năm hành gọi sáu Thần,
Có Vượng không thương, mừng bội phần.
Phản Phục hai Ngâm hình hại đến,
Trong nhà quyến thuộc ngại tai truân.

Luận chín cung
Chín cung cho biết vi phong thủy
Gặp vượng vào sinh là phúc quý.
Ví dụ Phù bay đến quỷ phương,
Xem trong lầm lạc sao nên thế.

Luận cách cát hung
-Hổ nhập Môn, làm cho ly tán,
Tước đới Hình, nên bị quan đòi.
-Cầu Hình Môn thì nhà mắc họa,
Hổ Hại can có kẻ đè lối.
-Xà phụ vào chiến sao Bồng, đáng ngại trẻ con kinh giản,
Vũ hội đương quyền Nhậm tú, kẻ càn tà quái gieo tai.
-Lục hợp Thiên Trụ, con cái gái trai oán giận,
Thái âm Ương Cảnh, tỳ thiên yêu quý tiếm ngôi.
-Cửu địa Canh Tân là dao ngầm, ví gặp Kinh Thương, mang lợi hạ mà ngầm
trong có tổn.
Cửu thiên Bính Đinh là bướm lượn, ví kèm Giáp ất Bồng khắc chiến phòng
khi côn gậy người quai.
-Chu Tướng lai phụ Bính Đinh, lời ganh nhức óc, Huyền vũ mà theo Nhâm
Quý trộm đạo đeo gài.
-Canh Tân Bạch Hổ được nơi (đắc địa), nên thế hung càng mạnh,
Mậu Kỷ Cân trận hình khắc, mà phá hại đến nơi.
-Hổ bị đốt đuôi, trước hung sau cát,
Xà chui vào đất, rắn nép sau coi.

Lại luận cách cát hung
-Phản thủ mà nhà cửa thênh thang,
Điệt huyệt có chạm sơn xà cột.
-Tàng phong tụ khí, vì cách Độn lẽ nên tìm,
Triều củng hữu tình, bởi cục giả mà lẽ cốt.
-Đắc sử mà nhà cửa tôn nghiêm,
Thủ môn nên ăn ở sáng suốt.
-Ngũ Giả, mở rộng nữa càng nên,
Tam thắng, dựng xây thêm vẫn tốt.
-Ất trên Tân, nên buồng cửa siêu nghiêng,
Tân trên Ất mà hổ đầu nhòm ngột.
-Quý trên Đinh, nên bếp xí không lành,
Đinh trên Quý, mà yêu ma quấy quất.
-Phục can vào trạch (nhà), nhà thiếu thuận hòa,
Phi can úp cơ (nền nhà), tai ương đau xót.
-Phục cung, ngại hiểm có ghét ghen,
Phi cung, họa khởi trong đường đột.
-Đại cách, Tiểu cách, bắn phá không lành,
Hình cách, Bột cách, người nhà thở ngột.
-Huỳnh nhập Bạch, quái lạ nảy sinh,
Bạch nhập Huỳnh lo phòng lửa đốt.
-Ngũ bất ngộ nên mới tổn người,
La Cương trương, thấy khi trái trật.
-Lục Nghi kích hình, có phục tai hung,
Tam kỳ nhập mộ, ám u tối nhốt.
-Thiên mã Không Hãm, biết lối nào ra,
Phản Phục Môn Bách, không lành giảy dớt.
Cát hung cách hiện, phòng tùy người,
Kiểm điểm sáu thần, đâu đứng chót.

XEM TẬT BỆNH
Trực phù
Trực: chứng dương. Xà: kinh khủng, đêm mộng di tinh
Âm: phế lao, cốt hư. Lục: phong ngứa.
Câu, Huyền: phản vị, mửa tháo, chết đường.
Chu, Bạch: điên, băng huyết, ỉa chảy.
Địa: chứng âm. Thiên: Lạc phách.

Trực sử
Hưu: tả lỵ, thương hàn Sinh: hung độc, hại mắt.
Thương: co quắp, phong hàn. Đỗ: ủng hàn, họng, răng, dạ dày phong.
Cảnh: thương thực, đinh nhọt. Tử: bệnh cổ, hòn.
Kinh: ho lao. Khai: phế ung, họng lưỡi.

Mười can
Giáp: đầu mặt, gan Ất: vai, lưng, mật.
Bính: trán, mũi, tâm, gân Đinh: răng, lưỡi, tiểu trường.
Mậu: lá lách. Kỷ: Dạ dày.
Canh: Phế, gân. Tân: ức.
Nhâm: thận. Quý: tạng.

Chín tinh
Bồng: quái nước làm tai.
Nhậm: quỷ miếu lạnh làm quái.
Xung: làm chết sinh đẻ cho nên đòi mạng, ma cây, thời dịch.
Phụ: nguyện với thần trời chưa đủ, Đông nhạc phán tra.
Ương: thần bếp không yên.
Nhuế: gia tiên quấy.
Trụ: giếng, mộ đào thành hố sâu.
Cầm: thành hoàng, xà thần giáng phúc.
Tâm: thiên thần, đẩu phủ giáng họa.

Chín cung
1 : huyết chứng, mạch lạ, không lợi, nên khai đạo.
2 : bệnh tỳ vị.
3 : Chứng hỏa, tâm hung, phiền táo, nên ôn lương.
4 : Thân Tý Thìn – Tỵ Dậu Sửu.
5 : 4 góc trên, 4 chương trên.
6 : Dần Ngọ Tuất – Hợi Mão Mùi.
7 : chứng lao, gân xương chùng, nên âm bổ.
8 : Nên châm chích.
9 Chứng phong, có thể khó chịu, nên hòa giải.

Môn Hộ
Phát tán trách thiên môn. Tiêu đạo trách địa hộ.
Môn Hộ gặp hình (kích hãm), bệnh này ở biểu lý, có cứu, nên chứng (âm dương) dễ trị khỏi.

Ba giáp
Mạnh giáp: chủ bệnh ở thượng tiêu (mở: mửa tháo, kết. Đậy: uất.)
Trọng giáp: chủ bệnh ở trung tiêu (mở: hồi hộp, nấc. Đậy: bí, cách).
Quý Giáp: chủ bệnh ở hạ tiêu (mở: trĩ dò. Đậy: trĩ bế)
Mở kỵ Hình. Đậy kỵ xung. Dương mở: ở biểu. Âm đậy: ở lý.

Luận can chi
Can ngày là Người, Can giờ là Bệnh.
Nạp can nơi ấy thuốc thang định.
Người khắc bệnh thì bệnh chóng lành,
Bệnh khắc Người thì nên lo lắng,
Y mà khắc bệnh, hãy nên cầu,
Nhưng thương Người, hẳn không nên tính.
Giao khắc Phù Sử thực danh y,
Sinh Hợp Phù Sử, thây nhọc cánh (chật vật thuốc thang)
Duy mừng ngày vượng, giờ Hưu Tù,
Kiểm điểm năm Hành, tìm bệnh dành.

Luận trực phù
Trực phù xem bệnh biết từ đâu,
Khắc chế hình thương, khảo bệnh đầu.
Âm Lục giao thương, tìm dục bệnh,
Câu Địa hình Phù, trệ, nở câu.
Xà Tước chế Phù, nhân buốt óc,
Bạch Thiên, chính thực sựo kinh đau.
Phù tới đất Không, tà chẳng thực,
Tứ Phế tìm xem chước ý mầu.

Luận Trực sử
Trực sử xem bệnh đỡ hay đau,
Ba năm hung cát, môn luận màu.
Cát gặp Hưu Tù, dai dẳng mãi,
Hung mà Vượng Tướng, đáng lo âu.
Rất kỵ Mệnh mộ, Niên hình gặp,
Trong giờ xem rõ tiến thoài cầu.
Hung thoái đỡ ngay, cát tiến khỏi,
Môn Hộ sinh cát mới không ưu (lo).

Luận mười can
Mười can luận bệnh ở nơi nao?
Can (gan), Đởm, Tỳ, Vị, Tâm, Thận sao?
Xem rõ Kỳ Nghi Hình với kích,
Dưới trên hợp biết bệnh nơi đâu?
Mộc khắc Thổ là Tỳ Vị hại,
Hỏa khắc Kim là Phế có sầu,
Kim đi khắc Mộc, đường gan biến,
Thủy khắc Hỏa , Tâm thận đau.
Mệnh Niên Nhật Thời, thêm xét nữa,
Sinh Vượng Tù Hưu biết chỗ cầu.

Luận chín tinh
Xưa nay họa phúc chin tinh coi,
Cát hung tinh tú tự đây noi.
Vượng cát tinh lâm, tai chẳng gặp,
Tử hung tinh chiếu, ngại ương tai.
Cát mà sinh gặp, hung hinhỳ vắng,
Hãy nên cầu đảo bảo cho người.

Luận chín cung
Chín cung bệnh nguyên với y dược,
Thủy nên sơ thong, Mộc kỵ Tước.
Kim nên ôn bổ, Hỏa sợ quan (ngăn đóng)
Thổ vốn năm Hành nhào nặn được.
Hành này vượng động sách hình thương,
Biến lẽ trung hòa y đích đáng.
Xem tường tiết khí, xét thực hư,
Bệnh thực biết chân, được chẳng lạc.

Luận Môn Hộ
Môn thương phát ở Biểu, chẳng còn nghi,
Hộ thương trị lý, chẳng nên trì (chậm).
Môn Hộ đều dương, Biểu Lý trị,
Âm Dương sau trước, hỏi nhân ghi.

Luận ba giáp
Ba giáp Mở Đậy luận tam tiêu,
Suốt tự đầu tròn, đuôi sống giữa.
Mở bị thương thì không khắc phạt,
Đậy gặp Hình Tù chớ bổ vào.

Luận cách cát hung
-Phản thủ, Điệt huyệt, cát hóa thành hung, Niên Mệnh không thương mới dám cho là cát.
Hổ cuồng, Long tẩu, trong hung có cát. Phù Sử hình bách, có thể lấy hung suy.
-Địa độn lâm Mệnh viên, suối vàng ấy khách.
Quỷ Giả đương quyền thây, âm phú theo tùy.
-Quỷ độn, Nhân độn, tựa không triệu cát,
Quỷ giả, Nhân giả, nào có lành chi.
-Tam trá, bệnh hay phản phục,
Độn giả, Âm Dương biện quy.
-Đắc sử mà chế Quỷ thì lợi,
Thủ môn cho bệnh cũ còn ghì.
-Tam không, Tứ Mộ đáng kỵ Hình Mộ Mệnh Niên, điềm ấy viếng tang trùng ngộ.
Thiên Mã tư môn, há nên kích bách Phù Sử, Không vong Hình Hãm còn ghê.
-Yêu kiều, gớm gần bên quỷ quái,
Đầu giang, lo hồn phách bay đi.
-Phục can, Phi can thấy không sáng. Mua thuốc thang phản chứng.
Phi cung, phục cung, người không yên nên nhà cửa kinh nghi.
-Đại cách, Tiểu cách, quan cách không thông, hai tiện bí,
Hình cách, Bột cách, trong mình mạch lạc chẳng điều chi.
-Huỳnh nhập Bạch, bệnh ngày thêm nặng,
Bạch nhập Huỳnh, tai tự bớt nguy.
-Niên Nguyệt Nhật Thời phùng cách Bột,
Tân cựu tai dịch, lấy mà suy.
-Ngũ bất ngộ, thời đã hết kiếp,
Lục Nghi kích hình, thương vận vì.
-Nhập Mộ La Cương, triền miên chi dịch,
Phản Phục, Môn Bách, hung ách dày ghi.
-Kim là Thủy, Mộc là quan quách,
Kim vào Mộc, chết choc bên kề.
-Canh Tân ví lại hình Giáp Ất,
Bay vào cung giữa khóc lê thê.

XEM THAI SẢN
Trực phù
Trực : người mẹ mang thai. Xà : thai lậu.
Âm : bà mụ đỡ. Hợp : nam nữ.
Câu, Bạch : cửa mình, mộc thần giục đẻ.
Chu, Huyền : nhau, nước trọc
Địa : thân thai. Thiên : thần đẻ.

Trực sử
Hưu : đẻ chậm, yên, chủ nam.
Sinh : thai sản lợi, chủ nam.
Thương : mẹ đẻ có kinh hãi, chủ nam.
Đỗ : phòng ốc không, chủ nữ.
Cảnh : thai yên, đẻ mau, chủ nữ.
Tử : mẹ con đều không lợi.
Kinh : có lo tổn triệt, chủ nữ.
Khai : đẻ lợi, ky thai, chủ sinh nam.

Mười can
Giáp : Thai ở Dậu, Dưỡng ở Tuất, Sinh ở Hợi, Tử ở Ngọ.
Ất : Thai ở Thân, Dưỡng ở Mùi, Sinh ở Ngọ, Tử ở Hợi.
Bính : Thai ở Tý, Dưỡng ở Sửu, Sinh ở Dần, Tử ở Dậu.
Đinh : Thai ở Hợi, Dưỡng ở Tuất, Sinh ở Dậu, Tử ở Dần.
Mậu : Thai ở Tý, Dưỡng ở Sửu, Sinh ở Dần, Tử ở Dậu.
Kỷ : Thai ở Hợi, Dưỡng ở Tuất, Sinh ở Dậu, Tử ở Dần.
Canh : Thai ở Mão, Dưỡng ở Thìn, Sinh ở Tị, Tử ở Tý.
Tân : Thai ở Dần, Dưỡng ở Sửu, Sinh ở Tý, Tử ở Tị.
Nhâm : Thai ở Ngọ, Dưỡng ởMùi, Sinh ở Thân, Tử ở Mão.
Quý : Thai ở Tị, Dưỡng ở Thìn, Sinh ở Mão, Tử ở Thân.

Chín tinh
Bồng : thủy vượng khí Nhậm : Thổ vượng khí.
Xung : Mộc vượng khí Phụ : Mộc vượng khí.
Ương : Hỏa vượng khí Nhuế : Thổ vượng khí.
Cầm : Thổ vượng khí Trụ : Kim vượng khí
Tâm : Kim vượng khí.

Chín cung
1 : Giờ Ngày bản vị và Ngày Ngọ Mùi, Giờ Dần, chủ sinh nam.
2 : Bốn góc Thổ dương, sinh nam.
3 : Giờ ngày bản cục, hoặc ngày Sửu Dần, giờ…
4 : Tiết Thân Tý Thìn. Khí Tị Dậu Sửu, tr… thế thì có trắc trở hình hại.
5 : Tiết khí: Thổ: dự sinh đôi.
6 : Tiết Dần Ngọ Tuất, Nam phòng lui trình. Khí Hợi Mão Mùi, Nữ sợ hưu tù.
7 : Giờ ngày bản cục và giờ Hợi ngày Thìn Tị sinh, chủ nữ.
8 : 4 rốn Thổ = âm, chủ nữ.
9 : ngày giờ bản cục sinh, hoặc ngày Dậu giờ Mão và ngày Hợi, giờ Tị, sinh .

Môn Hộ
Địa Hộ không Hình, thai tất ổn. Thiên Môn cát Mã đẻ không lo. Môn Hộ hợp dương tinh, chủ Nam, âm tinh chủ Nữ.

Ba giáp
Mạnh giáp : thai ổn, đẻ chậm, Mở nam, Đậy nữ.
Trọng giáp : thai huyền, sắp đẻ. Mở Đậy hình xung thì đẻ non.
Quý Giáp : thai hư, Mở Đậy Hổ Mã định kỳ sinh.
Mạnh lợi thai sơ, trọng thai thứ, quý hình thai thứ 3, xem niên mệnh tới giáp nào mà định.

Luận can chi
Nhật can là mẹ, thời can là con
Tìm nạp âm xem nam nữ tròn.
Lợi mẹ sinh thuận, con sinh nghịch,
Hóa hợp: thai hình cơ ngẫu nom.
Vượng Tướng Hưu Tù cô hư có,
Khóa nguyên dụng thần Phi Phục bon.
Tượng lớn không hoen (không có vết), là triệu cát,
Hóa Phụ, hóa Quỷ hung nguy còn.
Hành niên bản mệnh nạp âm rõ,
Thiên hỷ sinh khí mới là hơn.

Luận Trực Phù
Mẹ đẻ trực phù, con Lục hợp,
Hình Tù Vượng Tướng cát hung quyết.
Bạch Xà dục Lục là kỳ sinh.
Địa Âm hợp Lục, chờ tháng hết (sinh vào tháng sau).
Những may thời Nhật không đau thương,
Mẹ con tròn vẹn là hơn trước.
Chuyên trách Phù nguyên khởi Thân nào,
Bay đến cung nào có sinh hợp.
Cát hung Nam Nữ kỹ suy tường,
Âm Dương cơ ngẫu nghi quan phát.

Luận Trực Sử
Thấy chăng Trực sử xét thư hung,
Môn cát cung dương sản báo long.
Môn âm, cung âm sinh gái quý,
Tối kỵ Hình khắc với Không vong.
Cung chế Môn thì nuôi nấng khó,
Nhiều hoảng nhiều lo: Môn chế cung.
Ví thấy xem thai toàn cát cả,
Mã quan sinh vượng: ngựa trời rong.

Luận mười can
Sáu Nghi là mẹ, ba kỳ trai,
Sinh hợp Hình Tù xét mọi loài.
Thai Dưỡng sinh tử tường Thời Nhật,
Bay đâu đấy xét, dưới trên bài.

Luận chín tinh
Chín tinh âm dương xét thai vận,
Vượng Tướng Hưu Tù, giờ ngày luận.
Thai phòng Tử Phế Cô với Hư,
Xem cung bay đến, rồi môn vân.
Vào Mộ phùng sinh biện chậm mau,
Lúc này đáng thực, sản ngày cận.
Rồi trong hình thể cũng xem thêm,
Vào Quỷ, vào Tài với vào ấn,
Hóa Không phùng Sinh, sản dễ dàng,
Hóa Tử, ngồi Mộ, sản lo lắng.
Luận chín cung
Chín cung mở đầu chia tiết khí,
Tiết khí chia thời còn trở trệ.
Thai gặp Mã là đương chuyển rời,
Trường sinh được Mã sản dục dễ.
Kim Hỏa phùng Quan, đang lâm bồn,
Thủy Mộc phùng Không, ngại đáng nghĩ.
Phế Thổ Không hãm tất trụy thai,
Tìm xem Niên Mệnh đoán theo ý.
Luận Môn Hộ, Ba Giáp
Đoán xem thai sản xưa từng dạy,
Môn Hộ âm dương, giáp Mở Đậy.
Dương Mở sản sinh tất mọi thông,
Âm đậy, khai thông không phải ngại.
Luận cách cát hung
-Phản thủ, xem thai tốt đẹp,
Điệt huyệt, xem sản cũng hay.
-Bạch hổ xướng cuồng, mẹ sản có hay kinh hãi,
Thanh long đào tẩu, con thai sợ có buồn vay.
-Độn cách, tuy lắm điều may, trong còn có vết,
Trá Giả, vốn không hung cát, thai sản nghi thay.
-Tam kỳ đắc sử, xét sáu nghi âm dương mà biết sinh trai sinh gái,
Ngọc Nữ thủ môn, xét sáu cung chủ khách mà biết tốt gái tươi trai.
-Xà yêu kiều, đã thai chứa không lành, lại đáng lo khi bà đỡ vụng,
Tước đầu giang khi thai con đang lớn, mà đẻ non có thể kỳ này.
-Phục can, Phi can, mẹ đẻ chưa yên rên rỉ,
Phi cung, phục cung, con thơ chưa khỏi quắt quay.
-Đại cách, Tiểu cách mẹ con không toàn vẹn,
Hình cách, Bột cách, đau ốm mãi lắt lay.
-Tuế Nguyệt cách, thai đè như núi nặng,
Nhật thời cách, ngồi bệt chịu chua cay.
-Nhập Bạch, Nhập Huỳnh, sự mang thai nên biết chậm mau,
Lành dữ lấy cung mà đoán.
Phản ngân, Phục ngâm, việc chửa đẻ lấy Tinh Môn luận.
Phản Phục hai hạng suy bày.
-Tinh di, mà thai không thực,
Môn Phản, đại để sai chạy.
-Ví nếu Tinh Môn đều phản,
Tuy rằng sản tốc, ngại thay.
-Bất Ngộ thì tai dị,
Hình kích thì hung ngay.
-Nhập Mộ, La Cương, sản không lợi

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 14

XEM HÔN NHÂN
Trực phù
Phù : chủ hôn Xà : điêu toa
Âm : gái, bà mối, trai, trang sức. Hợp : lễ vật người rể biếu bà mối.
Câu, Bạch : trắc trở, hình khắc. Chu, huyền : miệng tiếng, dối trá, lường gạt.
Địa : Bồng trệ, nhà gái ở xa. Thiên : nhà trai vui vẻ hiên ngang.

Trực sử
Hưu : trai nhỡ, trì trệ.
Sinh : trai nhỏ, tuổi tác không bằng.
Thương : trai trưởng, nhà trai có biến.
Đỗ : gái trưởng, tóc thưa, nhà gái sai ước.
Cảnh : gái nhỡ, dối trá.
Tử : mẹ, cô, dì, bà, vui vẻ tự đắc.
Kinh : gái nhỏ tàn tật.
Khai : phụ lão có tráp.

Mười can
Giáp : nhà trai là cả Ất : bà mối, di, xinh đẹp.
Bính : bà nội giục gấp. Đinh : người mối mềm dẻo.
Mậu : lễ nghi Kỷ : gái đôn hậu.
Canh : gièm pha, gian dối Tân : người mối trắng hồng.
Nhâm : bà mối, cô, áo dài. Quý : kỳ cưới, bà.

Chín tinh
Bồng : đen lùn, có ám tật.
Nhậm : cong queo, xấu xí.
Xung : tiếng to, cao gầy.
Phụ : dáng giầu có, tiếng to, lấm tấm đỏ hồng.
Nhuế : lấm tấm đen vàng, eo to.
Cầm : đoan chính.
Trụ : khẳng kheo, tiếng dội lớn.
Tâm : tốt đẹp.

Chín tinh
1 : được lệnh, thì u nhàn, trinh tĩnh. Không được lệnh thì lang thang, phong trần.
2 : được lệnh thì đôn hậu.
3 : được lệnh thì nửa đĩnh đạc oai vệ. Không được lệnh thì sẹo to, dâm dật.
4 : Tiết: Thân Tý Thìn, đen và thông minh. Khí: Tị Dậu Sửu, vàng nhuận, cương quyết.
5 : Tiết: 4 góc Thổ. Khí: 4 rốn Thổ.
6 : Tiết: Dần Ngọ Tuất, lấm tấm đỏ. Khí: Hợi Mão Mùi, thanh tuấn.
7 : được lệnh là nhà có tiếng tăm lớn. Không được lệnh thì hình khắc cô qủa.
8 : không được lệnh thì khập khễnh.
9 Được lệnh thì cao đẹp. Không được lệnh thì lang thang, chết non, tàn tật.

Môn Hộ
Nhà Nam quý Thiên môn. Nhà Nữ quý Địa hộ.
Môn Hộ được Trực Phù, Thái âm, Cửu thiên, Cửu địa, Lục hợp thì trai gái nghe nhau.
Ba giáp
Mạnh giáp : hay cho trai trưởng, gái trưởng, lợi ở sơ hôn.
Trọng giáp : hay cho trai nhỡ, gái nhỡ xem.
Quý Giáp : hay cho trai nhỏ, gái nhỏ xem, lợi ở lần sau.
Dương Mở thì giầu sang, nhà trai giầu sang. Âm đậy, không Hình thì nhà gái giầu sang.

Luận can chi
Nhật can là Nam, Thời can Nữ,
Nạp âm sinh khắc, tìm trong đủ.
Nhật thời sinh hợp, cùng hòa hài,
Hóa theo biến thể, lẽ không có.
Hóa Phụ, hóa Quỷ, việc khôn thành,
Hóa Tử, hóa Tài, hôn tất hứa.
Kim Mộc thương nhau, tìm thời lệnh,
Thủy Hỏa khắc nhau, trên dưới cứ.
Đại ước, Hưu khắc không ngại chi,
Vượng hình xung chế, không đẹp đẽ.
Lấy xem niên mệnh với loại thần,
Hại môn, hưu liệt, xét đại thể.

Luận Trực Phù
Gả chồng, dựng vợ Quý Âm Hợp,
Sinh Vượng nhờ nhau, tờ hôn chép.
Chu tước, Đằng xà, bà mối đây,
Câu trận, Bạch hổ hôn phá chót,
Địa chậm, Thiên mau, Huyền dối lừa.
Hôn thú, Trực phù là tốt nhất.

Luận trực sử
Trực sử xưa nay khảo, phá, thành,
Phương vị, trẻ già, cũng hiện trình.
Hợp xem, không khắc, hôn nên tốt,
Không Hãm Hưu Tù, uổng mối manh.

Luận Mười can
Tam kỳ lục nghi phán âm dương,
Nam Nữ tính tình khác dạng trang.
Kỳ chẳng vào Mộ, Nghi chẳng Kích,
Hợp chính, hợp bằng, lấy Nhật tường.

Luận chín tinh
Phân loại chín tinh biết tính tình,
Cũng như Thân Mệnh khảo máu manh.
Tương lai, dĩ vãng, tìm thời lệnh,
Giàu khó, sang hèn, châu cõi linh.

Luận chín cung
-Khởi đầu thủy cục, nhiều dâm đãng,
Có cát, không hình, đoan chính đáng.
Chỉ ngại trái lệnh với Cô Hư,
Miễn cưỡng thành thân, trắc trở trạng.
-Khởi đầu Hỏa cục, ngại dối lừa,
Được cát, trai tài gái sắc dáng.
Ví mà Hình Mộ với sai Thời,
Hôn thú không kêu sinh sẹo cáng.
-Khởi đầu Mộc cục, chủ hòa nhu,
Thục nữ sánh cùng quân tử đặng.
Ví gặp Tù Mộ Phế Không Hình,
Ấm Tật, tàn thương, mà thấy ngán.
-Khởi đầu kim cục cùng hòa hải,
Được lệnh, không xung, vui vẻ hẳn.
Ví bằng Không Phế Mộ Hình xung,
Béo đen, xấu xí mà thêm chán.

Luận Môn Hộ
Môn Hộ cát thì xứng cả hai,
Môn hung, Hộ cát, Nam không hài,
Hộ hung, Môn cát, Nữ chẳng lợi,
Môn Hộ đều hung thương cả đôi.

Luận Ba giáp
Mạnh giáp phùng môn, hôn chính nghi,
Trọng Quý mà phùng, cũng thế suy,
Rất sợ Tù kiêm Hình khắc Đậy,
Hưu Phế, nhân duyên trắc trở vì.

Luận cách cát hung
-Phản thủ, cưỡi rồng là rể,
Điệt huyệt, ngàn lạng là vàng.
-Hổ cuồng, Long tẩu, gái trai tương hại,
Thiên độn, Nhân độn, mắt sáng mày ngang.
-Tam trá, Ngũ giả,
Qua quán thêm phòng.
-Đắc sử cho chim Loan rực rỡ,
Thủ môn nên gái nắm kỷ cương.
-Yêu kiều, khiến đàn bà ngạo ngược,
Đầu giang mà bà mối bất lương.
-Phục can, Phi can, nhiều bề hung hãn,
Phục cung, Phi cung đây đó lươn khươn.
-Đại cách, Tiểu cách, độc cô quan quả,
Hình cách, Bột cách, trai gái bạo cường.
-Tuế Nguyệt cách, bên vợ mẹ cha không lợi,
Nhật Thời cách, vợ chồng tuổi thọ không trường.
-Nhập Bạch, nhập Huỳnh cách ấy,
Mỗi người một ý không vương.
-Bất ngộ thì có biến,
Hình Kích thì tính cuồng.
-Nhập Mộ La Cương, mà chịu khuất,
Phản Phục môn Bách, lắm tai ương.
-Nam Nữ Niên Mệnh sinh hợp có,
Bạc đầu, con cháu khắp môn đường.

XEM CHÔN CẤT
Trực phù
Phù : mồ mả, long thần kết tụ, hình thế khởi phục hướng về.
Xà : đường đi, gò đống, đôi ngạn dẫn mạch.
Âm : huyệt thuận khởi gió, bên hữu cánh cung cong vào.
Hợp : hướng sa đường có cây cao, tả hữu có cánh cung.
Câu, bạch : thế trong có hộ sa củng đối, thế ngoài có hữu sa.
Chu, huyền : minh đường có nước từ xa đến, chủ sơn là lai long.
Địa : huyệt oa, có tĩnh rút xuống.
Thiên : hướng về phương có thế trướng che.

Trực sử
Hưu : Nhâm Tý Quý, Hoàng tuyền tại Thìn, kỵ ngày giờ Mậu Thìn
Sinh : Sửu Cấn Dần, Hoàng tuyền tại Dần, kỵ ngày giờ Bính Dần
Thương : Giáp mão Ất, Hoàng tuyền tại Thân, Canh Thân.
Đỗ : Thìn Tốn Tỵ, Dậu Tân Dậu.
Cảnh : Bính Ngọ Đinh Hợi, Kỷ Hợi.
Tử : Mùi Khôn Thân Mão, Ất Mão.
Kinh : Canh Dậu Tân Tỵ, Đinh Tỵ.
Khai : Tuất Kiền Hợi Ngọ, Bính Ngọ.

Mười can
Giáp : Hoàng tuyền Dần, Khô Mùi, kỵ nước Dần về, kỵ Hợi chảy đi.
Ất : Tốn, Tuất, Thìn Sửu
Bính : Tốn, Tuất, Ngọ Dần
Đinh : Khôn, Sửu, Mùi Dần
Mậu : Khảm.
Kỷ : Ly.
Canh : Khôn Sửu, Thân Thân
Tân : Kiền Thìn Tuất Thìn
Nhâm : Kiền Thìn Hợi Tỵ
Quý : Cấn Mùi Sửu Tỵ

Chín tinh
Bồng : hình thủy, ngay ngắn, nhọn. Nhâm : hình thổ, cong nhọn.
Xung : hình mộc, dài vẹo. Phụ : hình mộc, đẹp đẽ.
Ương : hình hỏa, nhọn, hư. Nhuế : hình Thổ, lệch bên.
Cầm : hình Thổ, vuông vắn. Trụ : hình kim, lõm ngửa.
Tâm : hình kim, cửa oa.

Chín cung
- 1: Kết huyệt thủy cục.
- 2: 4 góc thổ.
- 3: kết huyệt cục Mộc.
- 4: Tiết: Thân Tý Thìn. Khí : Tị Dậu Sửu.
- 5: tiết khí. Kết huyệt Thổ cục.
- 6: Tiết Dần Ngọ Tuất. Khí Hợi Mão Mùi.
- 7: kết huyệt kim cục.
- 8: 4 khố Thổ
- 9 :Kết huyệt hỏa cục.

Luận Môn Hộ
Nghinh hướng triều đối thì xem Thiên môn. Ủng hộ qua khe hẹp thì xem Địa hộ.
Môn Quý hợp Thiên ất Thiên mã, tam cát môn thì cát. Hộ quý hợp Âm quý, Cửu địa. Ngũ giả thì hay.

Ba giáp
Mạnh giáp: xem thế bên Tả (chủ long).
Trọng giáp: xem thế trung (chủ huyệt).
Quý giáp: xem thế bên hữu (chủ nước sông).
Mở thì kỵ Không Hình, Đậy thì kỵ Cách. Trong ngoài Mở Đậy thì lượng trước sau. Kim Mở thì sa và Thủy mất thu vào giậu. Toàn đậy thì không hóa, thiếu lợi ích.

Luận can chi
Nhật can là Người, Thời can: đất,
Nạp âm là hướng về Sơn mặt.
Hai sao sinh hợp hãy nên chon,
Đất khắc Người thì lòng chẳng chắc.
Nhật nạp tìm Sơn. Hướng ngó Thời (thời nạp hướng)
Sơn Hướng không thương, chon tốt chất.
Ví mà có một bị hình thương,
Thì Sơn nên đổi, Hướng nên cất.
Sơn Hướng không nên khắc Đất nguồn.
Thấy dời điểm hướng không chân ngặt.
Ví khắc, bại vong với chết người,
Khuyên ai Sơn Hướng nên coi mặt.
Hòa hợp, trong đây gọi long chân,
Hóa Vượng, cần chân, giả tú mắc,
Hóa khí nạp âm sinh hợp nhau,
Cháu con áo vá đất vàng xét.
Được thêm Phù Sử vượng càng hay.
Thủy chung đều cát, chôn hay nhất.

Luận trực phù
Trực phù xem mất, Hỏa thế hình,
Mộc Hỏa Kim Thổ Thủy loại tình.
Vượng Tướng Hưu Tù Cô Hư gặp,
Lấy cung mà xét định cho rành.
Thái âm huyệt tình, Cửu địa huyệt,
Minh đường ắt trước, Chu Xà trình.
Hướng che bình chướng, Cửu thiên hỏi,
Chủ Sơn sa tìm, Huyền Bạch thành.
Dụng thần không phạm Hình Cô khắc,
Được Hợp Sinh, chôn thế đại hanh

Luận trực sử
Trực sử chia xem Sơn với Hướng,
Ở trong chuyển triết nhiều tình huống.
Hưu Tù, Phi Vượng cũng nên chôn,
Vượng bay Hưu Phế đúng động thương.
Lại đem Phi Phục xét xem tường,
Đây đó không thương, Sơn Hướng chuộng.
Đáng kỵ Nhật Thời, Sát diệu phùng,
Đoan đích bên trong có thứ trạng (trạng thái này).
Đừng để cho Sử gặp cung này,
Không gấp đổi rời, tai nạn vướng.

Luận mười can
Tra xét sơ chủ của mười can,
Quỷ khắc là điều có vướng ngăn.
Còn ngại tọa vào nơi có Sát,
Đất này nên phế, chẳng nên bàn.
Giáp Ất hưng long, mạch tả đến,
Hãy bạt cây rừng đỡ át lan.
Canh Tân, ngủ ngoài không hiểm sợ,
Đâu cát xung lên, mạch hưu tàn,
Bính Đinh được lệnh, non cao nhẩy (Bính Đinh đắc lệnh khiêu phong tú)
Có một hoen ố, miệng tiếng càn.
Nhâm Quý được thời, lai mạch hậu,
Không thời con cháu lắm gian nan.
Kìa xem Mậu Kỷ cầu thai tức,
Phải cần Sinh Sát có liên quan.
Xem kỹ can nào Cô khắc đó,
Hãy đoán rằng phương ấy biến hoang (hoang tàn).
Tử Phụ Tài cung, khu khác biệt,
Cháu con phú quý một cục sàn.

Luận chín tinh
Đại khái chin tinh phải được thuần (thuần túy),
Thoát hao, biến quỷ, định suy dần,
Cát béo cát tinh, thì lắm cát,
Hung trợ, hung uy, hung bội phần.
Cầm được bản tinh sinh bản mộ,
Phi Phục hai cung quay (ngoảnh về) lợi trần.
Muốn tra hình thế về cục đất,
Tiến thoái ra sao? Tinh nghĩa phân.
Vượng Tướng Hưu Tù, hay dở đó,
Biết rằng hình thể thế hưng cân.

Luận chín cung
Chín cung để luận Tổ Sơn bầy,
Đầu cục không Cô mới nói hay.
Ví khi có cục vào Không ấy,
Hóa khí không chân, cùng xấu thay.
Toàn cục đều lành, không có vết,
Thì đem bản cục xét thêm nay.
Khởi tự cung nào bay đến đó,
Qua ruộng, lên khe, lối lắt lay.
Xét trải qua đâu, và lúc tới,
Biến Thai là bị thoát rồi đây.
Ví được thời và sinh địa tới,
Ngôi đẹp trời cao đã đến tay.
Thượng cục được thời, quay tả đúng,
Hạ thì hữu ngắm, trung mgồi ngay.
Phải theo tiết khí riêng từng cục,
Đắc thời, thất lệnh, tùy thế xoay.

Luận Môn Hộ
Môn Hộ Hưu Tù, dễ nghiệm tình,
Chỉ xét âm dương, quý nhân tinh.
Dương cát tinh vào môn, sớm phát,
Âm cát tinh vào Hộ, chậm hung.
Môn cát, Hộ hung, Môn tới bỏ,
Hộ cát, Môn hung, trước trái quanh.
Ví bằng Môn Hộ toàn hung cát,
Chung thủy ra sao? Đã thuyết trình.

Luận Ba giáp
Ba giáp chia khu Tả Hữu Trung,
Long huyệt sa thủy định căn tông.
Mở Đậy bên trong, lẽ vi diệu,
Dụng thần đắc địa, ấy tiên cung.

Luận cách cát hung
-Phản thủ là hồi long cô tử,
Điệt huyệt là xà nhập Long oa.
-Hổ cuồng kia, nên xem nước hữu phản lại,
Long tẩu nọ, chỉ hai mạch tả chạy ra.
-Độn cách đều có đất dung, Địa độn mà gặp mừng phải lẽ,
Giả cách đều có riêng biệt, quỷ giả mà phùng lợi đáng ca.
-Tam trá cách, luận nồng sâu huyệt bối,
Tam thắng cung, diệu Địa ấy Sơn sa.
-Đắc sử thấy, khí mạch từ xa đến,
Thủ môn mà, gò đống kín bao la.
-Tam môn Tứ hộ, chớ để hình thương Trực sử cùng Thời Nhật,
Thiên mã Tư môn, cần gặp Cửu thiên, Lục hợp, Phù Sử cùng nhà.
-Xà yêu kiều, chẳng thực huyệt tình, đường lối nên phòng đâm tới,
Tước đầu giang, án sơn khuyết thấp, hiềm rằng nước Vũ chảy qua.
-Phục can, Phi can, đất này còn có đổi thay, đáng sợ sau thành
trường lấp đặc
Phi cung, Phục cung, đất ấy khí hung tất có, rồi đây kiến đục gió
lay pha.
-Đại cách, Tiểu cách, nước đã không triều còn xói lại,
Hình cách, Bột cách, Sa không hoàn bao lại xuyên tả.
-Huỳnh nhập Bạch, hơi thổi xông lên không phải tạo,
Bạch nhập Huỳnh, xương mòn săng nát khó mà qua.
-Niên Nguyệt Nhật Thời mà gặp Bột,
Long Huyệt Sa Thủy xét cho ra.
-Ngũ bất ngộ thời, nhân đinh chẳng vượng,
Lục nghi kích hình, tài bạch xót xa.
-Nhập Mộ, La Cương, tay Long Hổ đều pha Hình Sát,
Phản Phục Môn bách, nhìn hướng Sơn chỉ những hung nha.
-Phù Sử hưu tù, tuy cố táng mà không có phát,
Thời Nhật hình hại, tuy đã dung mà chết ra ma.
-Hai nguyên nạp âm không hình hại,
Phù Sử sinh vượng táng nên mà.

XEM LÚA MẠ
Trực phù
Phù : người nông cấy lúa.
Xà : hoàng trùng cắn, ếch nhái hại.
Âm : hạt lúa.
Hợp : mầm lúa.
Câu, Bạch: tai ương, sức trâu.
Chu, huyền: đầu bong Hoàng cắn, gốc nông nước sâu.
Địa : lúa ruộng chất đầy, thu được.
Thiên : rau vườn trồng trọt.

Trực sử
Hưu : nước tưới Sinh : cấy mùa Xuân.
Thương : làm cỏ, bừa. Đỗ : nẩy mầm.
Cảnh : tiết hoa. Tử : mùa Thu thu lúa tốt.
Kinh : thu cát. Khai : đau lòng, vạch lá, thăm bông.

Mười can
Giáp : mầm cây, sức trâu, công người, lúa hạn.
Ất : mầm trong lúa mạch.
Bính : đậu hoa.
Đinh : bông vừng.
Mậu : lúa nếp, bông, đậu.
Kỷ : thóc nếp, bờ ruộng.
Canh : trúng lúa, đại mạch.
Tân : lúa tiểu mạch thành hạt, gặp mưa đá.
Nhâm : nước tương, lúa muộn.
Quý : thu thực.

Chín tinh
Bồng : lúa mang, lúa miền ngập lụt. Nhậm : thóc lúa hạn, gió bạo.
Xung : Phụ : thần thóc lúa.
Cầm : cấy gặt, chân tể. Ương : hoa mầm, khô héo.
Nhuế : thần giỗ lúa. Trụ : trùng ôn, khô nỏ.
Tâm : hạt lúa.

Chín cung
1: chủ vắng vẻ. Được thời thủy thế lớn, trung hòa thì đầy kho.
2: được lệnh, ruộng lúa tốt. Chủ 4 góc
3: Chủ vừng. Không được lệnh, hạn hoang. Trung hòa thì hoa đẹp.
4: Tiết Thân Tý Thìn. Khí Tỵ Dậu Sửu.
5: Tổng tế khí 5 lúa.
6: Tiết Dần Ngọ Tuất. Khí Hợi Mão Mùi.
7: Chủ lúa mạch. Không được thời, có khắc, phòng hạn hoang, không khắc thì thu thành.
8: 4 khố thổ. Không được thời, có khô nỏ.
9: Chủ lúa. Được lệnh, chín đầy. Không được lệnh thì cỏ mọc.

Môn Hộ
Trồng trọt hoa đẹp trách ở Thiên môn. Làm cỏ, bừa dất, thu cát trách ở Địa hộ.
Dương Mở, được thời thì phong thu. Âm đậy, không được thời thì hoang hiểm.

Ba giáp
Mạnh giáp: tốt cho lúa sớm
Trọng giáp: tốt cho lúa nếp.
Quý giáp: tốt cho lúa muộn.
Dương mở không hình, không sợ hạn khô nỏ. Âm đậy, hình cách nên lo nước to.

Luận can chi
Nhật can Người nông, Thời can ruộng.
Nạp âm, trâu kéo Thời, lúa chuộng.
Thời sinh Nhật thấy, cấy trồng thu,
Nhật khắc Thời, trồng cũng có hưởng.
Trái thế, nên phòng có biến tai,
Nạp âm hóa hợp tiên thiên lượng.
Ở trong khóa thể, ngại Hỏa Kim,
Trùng hoang khô nỏ là trạng huống.
Thổ Mộc hai tượng nên khả dung,
Tượng Thủy mênh mông, chìm ngập xuống.
Muốn xem cầy cấy được hay chăng,
Thời lệnh tham xem cùng với tượng.

Luận trực phù
Trực phù, Lục hợp kỵ hình thương,
Phi cung, Phục cung, sinh vượng cường.
Chu, Xà, Huyền, Bạch lâm đâu đó,
Hưu Tù không khí kỵ xướng cuồng.

Luận trực sử
Trực sử,Đông làm, Tây lợi thành,
Môn xét mà xem ưu liệt tình.
Được thời, gặp Thủy không hình cách,
Dụng thần vượng tướng, lắm công lênh.

Luận mười can
Ương mầu, hoa, hạt, lấy Can phân,
Bốn Quý, Thời trời cũng kể lần.
Chủ cần được sinh, không kích chế,
Lại thêm Ta, Sử, thóc đầy sân.

Luận chín tinh
Chín tinh, năm hành, chia từng nghành,
Tinh cát, được Thời, thu sẽ thành.
Tinh trời, Thần Dụng không hòa hợp,
Sức người cố gắng, trớ trêu tình.

Luận chín cung
Chín cung nguyên khởi thuộc về đâu?
Vượng Tướng sinh hợp, cây mỡ mầu.
Cô Hư hình cách, mà thời gặp,
Sai khớp, xưa nay, thóc khả cầu.

Luận Môn Hộ
Bốn Quý, Tinh thời vào Môn Hộ,
Không hình, Không cách, thóc đầy ụ.
Môn cát, Hộ hung, hỏng lúa Thu,
Hộ cát, Môn hung, xuân lúa dở.

Luận ba giáp
Ba giáp tra xem việc cấy cầy,
Vào đầu Mở Đậy, để tranh bầy.
Tam cát, tam thắng về tấu hợp,
Tốt từng cây cỏ thẳng cò bay.

Luận cách cát hung
-Phản thủ, Điệt huyệt, đều là tượng cát, ví không hình,
Khắc với Mộ Kông, hẳn được đầy kho, ních đẫm.
Hổ cuồng, Long tẩu, vốn lấy hưng suy, khí chấn, tốn gió,
Mây gặp gỡ ắt rằng sau được phong thu.
-Địa đôn, Nhân độn cát, làm gì không lợi,
Tam trá, Ngũ giả hay, quyền biến hợp chu.
-Đắc sử nên mọi loài tốt quả,
Thủ môn mà lợi lộc thương ư.
-Tam Môn, Tứ Hộ, về nghỉ, đi làm đều hỷ khí.
Thiên mã, Tư môn, nước thuyền xe gió ngại khí thu.
-Xà yều kiều mà mầm non kém mẽ,
Tước đầu giang mà làm thóc mạ khô.
-Phục can, Phi can mà Hoàng trùng tai hại,
Phục cung, Phi cung, cày cấy khu khứ.
-Đại cách, Tiểu cách, nước tràn sâu cắn,
Hình cách, Bột cách nắng hạn cháy khô.
-Niên Nguyệt Nhật Thời phùng bột cách,
Năm hành tiêu tức đoán hay dở.
-Huỳnh nhập Bạch kia lúa Hè có tổn,
Bạch nhập Huỳnh ấy, Thu lúa nên hư.
-Ngũ bất ngộ Thời, gắng công phí sức,
Lục nghi kích hình, trông trọt bao la,
-Nhập Mộ với La Cương, bên xóm ruộng hoang lan mãi,
Phản Phục Môn Bách, tuy trông lòng dạ hoang vu.
Phú vũ hầu là quyết ngàn vàng, lưu việc cấy trồng nên suy xét kỹ. Lại hỏi người đến xem, Niên Mệnh có sinh vượng hay hình thương, hội hợp với loại thần mà phán đoán việc cấy trồng rất nghiệm.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 15

Ba kỳ, tám môn
Sáu bảy Ất vương, Ất bị nguy,
Bính Đinh vương một có ra gì.
Trụ Tâm đến chín đành than thở,
Kinh với Khai vào cũng bỏ đi.
Ương Cảnh hay chăng, sầu tới Khảm.
Hưu Bồng hai tám chịu lâm ly.
Tử, Sinh: Nhuế Cầm, Nhậm ba bốn,
Xung Thương sáu bảy có còn chi.
Đỗ, Phụ cũng gờm cung sáu bảy.
Ví người hội được thấu Thiên uy.

Bài ca Bách Bách
Kinh Khai gia 3, 4. Hưu vào 9.
Thương Đỗ mà về 2, 8 cung.
Sinh Tử bay về cung 1 đó,
Cảnh môn, sáu bảy cũng tương đồng.
Cát môn đến Bách thì không cát.
Hung môn đến Bách họa trùng trùng.

Bài ca Tam Kỳ nhập Mộ.
Ba Kỳ nhập Mộ có ra chi,
Ất, Bính vào Kiền hãy lánh đi.
Đinh ngại vần xoay vào Cấn thổ,
Mọi loài động táo chẳng ra gì.

Kỳ môn cách cát

Thiên độn:
Cửa Sinh chủ việc hưng long, hợp kỳ Bính, dưới có sáu Đinh. Độn này được nguyệt hoa che, nên hành binh, hiến kế sách, nắm giữ quyền vương hầu, trăm việc sinh vượng.
Lại Cửa Khai với lục Bính cũng vậy. Nên đề đảo thiên thần.

Địa độn:
Cửa Khai hợp kỳ Ất, dưới là sáu Kỷ.
Độn này được Nhật tinh che trở, nên an táng, mai phục, đi ra ngoài, làm nhà, đều cát.

Nhân độn:
Cửa Hưu với kỳ Đinh, hợp Thái âm.
Độn này được Tinh tinh che chở. Nên thám mật doanh địch, ẩn tích, vào yết Quý, chiêu hiền, cầu thân, kinh doanh, cầu Tướng đối địch, thề bồi thì cát, trăm việc hòa tập.

Phong độn:
Kỳ Ất hợp Khai Hưu Sinh tới Tốn.
Lại Khai Bính tới Tốn cũng vậy.
Lúc này gió từ phương Tây Bắc lại, gọi là gió Thiên Cương nên thuận gió đánh sang bên địch. Hợp khí gió phun vào cờ mao. Hễ thấy có mùi thơm lạ, sĩ tốt nghe như có tiếng nhạc, là được gió thiêng thuận buồm phù trợ.
Như gió Đông lại, gọi là gió Lôi môn. Nếu giặc ở phương Đông, không nên đánh. Như gió từ Đông Nam lại, gọi là Đại Môn Phong. Nếu giặc ở Nam thì cũng không đánh được.
Sách “Tham trù bí thư” nói : Cửa Khai kỳ Ất tới Tốn thì nên tế Phong bá (bác gió), lấy hỏa công mà chiến, dựng cờ lên để chờ phong ứng.
Vân độn:
Ất hợp Khai, Hưu, Sinh dưới là sáu Tân.
Lại: Ất Khai tới cung Khôn cũng vậy.
Độn này được Tinh mây che chở, nên giấu hình giặc. Nếu thấy khí mây như hình đàn bà, hai tay hai chân thì trong 3 ngày có mừng đến, cát.
Thấy mây trắng ở ngoài, trong có mây đen, chủ có phục binh.
Hình tựa nhạn bay, chủ có đại tướng ra đến nơi, cát.
Hình như chó ngồi thì có kỳ binh mai phục.
Mây lên từng phiến bị gió thổi đi, chủ thua to.
Có sách nói: Ất Hưu tới Khôn, lợi cầu mưa. Hễ thấy mây đùn lên trại thì chế tạo quân khí để chờ mây ứng.

Long độn:
Hưu môn Ất kỳ dưới là sáu Giáp ở cung Khảm.
Dưới là sáu Quý cũng vậy.
Lúc này nên tế Long thần, cầu mưa, rình bắt địch. Về mật qua sông giữ cửa nước, đặt mai phục, mưu công địch, liệu lượng mặt nước, được Long thần phù trợ. Lại lợi thủy chiến.

Hổ độn:
Kỳ Ất hợp Tân tới Hưu môn, trên cung Cấn.
Lại: Nghi Tân hợp Sinh môn trên cung Cấn cũng vậy.
Lúc này nên chiêu an kẻ lưu vong và chiến dùng nào để công địch thì tất thắng. Đặt phục, du kích, giấu binh, chặn giữ các ngả trọng yếu, dùng mưu mà đánh, được oai hổ giúp.
Có sách nói: Sinh môn sinh kỳ hợp Tân cũng vậy. Lợi việc chặn giữ. Nên lập sơn trại để đợi Hổ ứng.

Thần độn:
Kỳ Bính hợp Cửu Thiên tới cửa Sinh.
Lúc này nên cầu đảo thần linh, dùng thần thuật, vạch đất đặt trù, giẫm Cương, tạo đàn, khu tà, sai tướng, gọi gió với mưa và chế phục quỷ thần ma muội, được thiên linh, trăm thần che trở.
Còn nói nên nặn tượng thần, thần linh giúp cho.

Quỷ độn:
Cửa Sinh và kỳ Đinh cùng Cửu địa tới Cấn.
Lại: Kỳ Ất hợp Cửu địa ở cửa Đỗ.
Lúc này nên thăm dò quân địch, rồi doanh cướp trại, đặt phục, khu thần, rời quỷ, được quỷ thần che chở.
Còn nói: Cửa Khai, kỳ Đinh hợp Cửu địa cũng là Quỷ độn.

Cách tam kỳ Quý nhân thăng điện
Kỳ Ất tới Chấn là Nhật xuất phù tang. Là nơi có lộc. Đó là quý nhân lên chính diện Ất Mão.
Kỳ Bính tới Ly là Nguyệt chiếu loan môn (Trăng soi cửa chính trong thành), là nơi hỏa vượng. Đó là quý nhân lên chính diện Bính Ngọ.
Kỳ Đinh tới Đoài là Tinh hiện Tây phương, là thần vị nhà trời. Đó là quý nhân lên bản diện Đinh Dậu.

Cách tam kỳ thượng cát môn.
Ba kỳ: Ất, Bính, Đinh có đến mà không có 3 cửa cát: Khai Hưu Sinh đến cũng không thể dùng.
Như 3 cửa cát có đến mà không có 3 kỳ đến cũng còn có thể dùng.
Kinh nói: Bối sinh hướng tử, bách chiến bách thắng.
Gồm lại: Ba kỳ, tinh cát, môn cát đều có đến, lại không phạm cách mới là vạn toàn. Ví nếu như việc đến ngay, cấp, cát tinh không đến thì dùng phép Bối sinh hướng tử (lưng quay về Sinh, mặt hướng về Tử). Nếu thế địch còn chậm thì đợi đến khi Ba kỳ, ba môn cát đều đến mới là toàn mỹ.

Cách Tam kỳ chuyên sứ.
Ngày Giáp Kỷ là Kỳ Ất.
Ngày Ất Canh kỳ Đinh.
Ngày Bính Tân kỳ Bính.
Ngày Đinh Nhâm kỳ Ất.
Ngày Mậu Quý Kỳ Đinh.
Trên đây đều tốt. Âm Dương hai độn đều thế.

Cách Ngọc nữ thủ môn
Giờ Giáp Kỷ ở Bính,
Giờ Ất Canh ở Tân,
Giờ Bính Tân ở Ất,
Giờ Đinh Nhâm ở Kỷ,
Giờ Mậu Quý ở Nhâm.
Còn nói: cung Đoài mà có Đinh Tân thì cát.

Cách giao thái.
Kỳ Ất trên Đinh, Kỳ Ất trên Bính, gặp thì đại cát.
Cách thiện vân xung khí:
Sáu Đinh trên sáu Ất.

Cách Tam kỳ ở
Sáu Đinh trên sáu Giáp (sáu Giáp phù đầu).

Cách Thiên hiểu thời cách.
Ngày Giáp Kỷ, Giáp Tuất,
Ngày Ất Canh, Giáp Thân,
Ngày Bính Tân, Giáp Ngọ,
Ngày Đinh Nhâm, Giáp Thìn,
Ngày Mậu Quý, Giáp Dần.
Hành binh chiến đấu, thăng quan, vào yết, cầu tài, đi xa đều cát. Có tội đều được tha.
Ngày Giáp Kỷ được giờ Giáp Tý, Kỷ Tỵ cũng vậy.

Cách Long hồi thủ:
Thiên bàn sáu Mậu trên Địa bàn sáu Bính.

Cách Phi điểu điệt huyệt
Sáu Bính trên sáu Mậu.

Cách tước hàm hoa (chim tước ngậm hoa)
Sáu Bính trên sáu Ất.

Cách Tam kỳ đắc sử
Ất trên 2 cung Ngọ Tuất,
Bính trên 2 cung Tý Thân,
Đinh trên 2 cung Dần Thìn.

Các cách hung
Bột cách:
Bính trên Trực phù và Bính trên Năm Tháng Ngày Giờ đều là Bột cách, chủ việc đến nhậm chức gặp kỷ cương rối loạn. Bính trên Bính cũng là Bột, chủ việc thấy loạn thần tặc tử.

Cách Thiên cương Tứ trương (vó trời 4 bức)
Ca rằng: Thiên cương Tứ trương tẩu vô lộ. Nhất nhị trương để hữu lộ thông: (vó trời bốn bức không đường thoát, thân một hai trương có lối thông).
Như năm Nhâm Tuất, tháng 9, ngày Quý Mùi, giờ Sửu, độn Âm 6 cục. Cửa Hưu và Trực phù trên can giờ Quý ở cung Khảm. Hai can Ngày Giờ đều trên cung Ly là vó cao 9 xích.
Lời người dịch: khóa này, 2 can Ngày Giờ là Quý đều trên Tốn, chứ không phải trên Ly. Vậy thì ở đây lưới cao 4 xích. Giờ Quý thì Tử môn Trực Sử gặp Phục ngâm, vậy nói Trực phù cửa Hưu trên Khảm là đúng.
Lại ca: Thiên cương tứ trương, bất khả đương. Thử thời nguyệt sự hữu tai ương. Nhược thị hữu nhân cương xuất giả. Lập tiện thân hôn kiện huyết quang: (Vó trời bốn bức chớ nên đương. Gặp phải giừo này cả tháng ương. Ví cố ra đi ai đó tá. Thấy ngay thân quả máu me loang).

Cách Địa võng già (lưới trùm đất)
Nhâm trên Can giờ, sáu Quý, hai lưới, đều không nên xuất binh, xuất hành, hung lắm.

Cách Đế cao
Tức Thiên cương tứ trương, thiên bàn sáu Quý trên các cung 5-6-7-8-9, rất hung, không nên dùng.

Cách đế thấp.
Thiên bàn sáu Quý trên các cung 1-2-3-4. Lúc này nên bò mà ra thì thoát.
Kinh rằng: Thiên cương tứ trương: Bách vật tự thương. Thử thời bất cử. Bách sự không vong (Vó trời 4 bức. Mọi vật đều thương. Giờ này không động, Trăm việc không vong).
Thân có cao thấp, nên biết.

Cách Phục cung:
Thiên bàn sáu Canh trên Trực phù và địa bàn sáu Mậu. Chủ khách đều không lợi. Nếu cố giao đấu, cả hai đều thương.

Cách Phi cung: Trực phù trên sáu Canh. Chủ khách đều hung.

Cách thời mộ:
Bính Tuất mộ Kiền Nhâm Thìn mộ Tốn
Tân Sửu mộ Cấn Ất Mùi mộ Khôn
Mậu Tuất mộ Kiền

Cách Bách chế hòa Nghi:
Môn khắc Cung là Bách cung. Cung khắc Môn là chế Môn.
Môn sinh Cung là Hòa. Cung sinh Môn là Nghi.

Cách nhị long tương tỷ (hai rồng gần nhau): Lục Giáp trên Lục Ất. Hung lắm.
Cách Thanh long thụ khốn: Lục Giáp trên Lục Mậu. Nguy lắm.
Cách Hỏa phi thủy địa: Bính Đinh vào cung Ất. Mọi việc không nên động.
Cách Mộc nhập Kim hương: Kỳ Ất vào cung 6-7. Mọi việc không nên động.
Cách Hỏa lâm Kim vị: Bính Đinh tới cung Kiền Đoài.
Cách Kim phách mộc lâm (kim chẻ cây rừng): Canh Tân tới cung Chấn Tốn.
Cách Mộc lại khắc Thổ: Kỳ Ất tới cung Khôn, Cấn.
Cách Phục can: sáu canh trên can ngày.
Cách Phi can: Can ngày trên sáu canh.
Cách Phục ngâm: bản tinh phục ở bản cung.
Cách Phản ngâm: Tinh gia đối cung.
Cách kỳ mộ: Kỳ ất tới Khôn, Bính tới Kiền, Đinh tới Cấn.
Cách Lục nghi kích hình:
Giáp Tý Mậu trực phù trên cung 3.
Giáp Tuất Kỷ 2.
Giáp Thân Canh 8.
Giáp Ngọ Tân 9.
Giáp Thìn Nhâm 4.
Giáp Dần Quý 4.
Cách Lục nghi thụ chế: Hưu trên Ly, Sinh Tử trên Khảm, Thương Đỗ trên Khôn Cấn, Khai Kinh trên Chấn Tốn, Cảnh trên Kiền.
Cách ngũ bất ngộ thời: Can giờ khắc can ngày.
Cách địa la chiêm táng: Thiên bàn Nhâm trên địa bàn Nhâm.
Cách Tuế: Sáu Canh trên can năm.
Cách Nguyệt: Sáu Canh trên can tháng.
Cách nhật: Sáu Canh trên can ngày.
Cách thời: Sáu Canh trên can giờ.
Cách đại: Sáu Canh trên sáu Quý.
Cách tiểu: Sáu Canh trên sáu Nhâm.
Cách Hình: Sáu Canh trên sáu Kỷ.
Cách Bột: sáu Bính trên can giờ.
Cách Thanh long đào tẩu: Sáu Ất trên sáu Tân.
Cách Bạch hổ xướng cuồng: Sáu tân trên sáu ất.
Cách Đằng xà yêu kiều: Sáu Quý trên sáu Đinh.
Cách Tước đầu giang: Sáu Đinh trên sáu Quý.
Cách Huỳnh nhập Bạch: Sáu Bính trên sáu Canh.
Cách Bạch nhập Huỳnh: sáu Canh trên sáu Bính.

Bài ca 12 cung thần
Tý cung Bình báu (Bảo bình), đất thanh tề.
Sửu hướng Dương châu, Ma yết quỳ.
Dần hướng Yên,…, song mã cập,
Mão phương Tống, Dự yết trời (Thiên yết) phê.
Thìn cung Thiên xứng, phương Khương, Trịnh,
Tị đất Sở, Minh, Song nữ thể.
Ngọ tới Chu, hà (tam hà), Sư tử rống,
Vị cung Cự giải, Tần, Ung ve.
Thân phương Ngụy, Ích, Âm Dương vị,
Dậu tới kim Ngưu, Triệu, Dục kê,
Tuất tới Bạch dương, Tử, Lỗ đậu,
Hợi phương Tất Vệ, Song ngư quy.

Quyết độ số tinh tú qua vượt
Đê qua Mão 2 độ Vỹ qua Dần 3 độ.
Dẩu qua Sửu 4 độ Nữ qua Tý 2 độ.
Thất qua Hợi 13 độ Khuê qua Tuất 2 độ.
Vị qua Dậu 4 độ Tất qua Thân 7 độ.
Tỉnh qua mùi 9 độ Liễu qua Ngọ 4 độ.
Trương qua Tị 15 độ Chẩn qua Thìn 10 độ.
Vòng trời cộng 365 độ, 25 phân, 28 sao, chia ra 12 cung, mỗi cung 30 đô, 42 phân,…sao.

Phân dã 12 cung
Tý nguyên hao: 16 độ. Hư 9 độ, Nữ 15 độ. Tề, Thanh châu, tử châu, Minh đồng lộ.
Sửu Tinh kỷ: Ngọ kim ngưu 7 độ, Đẩu thủy giải 23 độ. Ngô, hoài nam, Đông lộ, Tứ thủy, giáng đông, Dương châu, Lỗ châu, Lưỡng triết, Phúc kiến.
Dần Triết thủy: Cơ thủy báo 7 độ, Vỹ hỏa hổ 18 độ, Yên u châu…, thâu, hà bắc, hà tây.
Mão Đại hỏa: Tâm nguyệt hồ 6 độ, Phòng nhật thỏ 5 độ, Đê thổ lạc 16 độ. Tống, Kinh đô, Dự châu, Sở quốc, tề âm.
Thìn Thọ tinh: Cang kim long 9 độ, Dốc giao long 12 độ. Trịnh, Long khánh phủ, Duyện châu, Đông Tây lộ, Thái sơn, Trần lưu, Sơn âm.
Tị Thuận vũ: Chấn thủy dẫn 18 độ ½, Dực hỏa xà 20 độ, 10. Sở, Kinh, hồ nam, hồ bắc lộ, Kinh châu, Quảng đông, Quảng tây lộ.
Ngọ Thuần hỏa: Trương nguyệt lộc 18 độ, Tinh nhật mã 7 độ, liễu Trương 14 độ. Chu, Kinh, Tây nam lộ, Tam hà, Quan tây.
Mùi Thuần thủ: quỷ kim dương 2 độ ½, Tỉnh mộc vũ 30 độ. Tần, Ung châu, Thiểm tây, Vĩnh hưng quân, Tần phong lộ, Tứ xuyên.
Thân thực trầm: Sâm thủy viên 9 độ, Chủy hỏa hầu ½ độ. Tần, hà bắc, Đông lộ, Đại châu, Thành đô, Mạnh châu.
Dậu Đại lương: Tất 16 độ, Mão 7 độ, Vị 17 độ. Triệu Dực châu, Hà bắc, Đông tây lộ, Chân định.
Tuất giáng lâu: Lâu kim cẩu 12 độ, Khuê 17 độ ½. Lỗ, từ châu, Bắc lộ.
Hợi thú tỷ: bích 9 độ, Thất 17 độ, Ngụy 17 độ. Vệ, Kinh châu, Thái nguyên, hà đông lộ.
Hình đồ phận dã 12 cung thần.






















KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 16

Định cục giờ cát Thái xung thiên mã

Dụng giờ hiến thư: ắt định khi Thái dương triền cung mới nên tuyển dụng.
Phương Thái xung Thiên Mã:
Tháng giêng Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4
Giờ Tướng Đăng minh Tướng hà khôi Tướng Tòng khôi Tướng Truyền tống
Tý Thìn Tị Ngọ Mùi
Sửu Tị Ngọ Mùi Thân
Dần Ngọ Mùi Thân Dậu
Mão Mùi Thân Dậu Tuất
Thìn Thân Dậu Tuất Hợi
Tị Dậu Tuất Hợi Tý
Ngọ Tuất Hợi Tý Sửu
Mùi Hợi Tý Sửu Dần
Thân Tý Sửu Dần Mão
Dậu Sửu Dần Mão Thìn
Tuất Dần Mão Thìn Tị
Hợi Mão Thìn Tị Ngọ
Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8
Giờ Tướng Tiểu cát Tướng Thắng quang Tướng Thái ất Tướng Thiên cương
Tý Thân Dậu Tuất Hợi
Sửu Dậu Tuất Hợi Tý
Dần Tuất Hợi Tý Sửu
Mão Hợi Tý Sửu Dần
Thìn Tý Sửu Dần Mão
Tị Sửu Dần Mão Thìn
Ngọ Dần Mão Thìn Tị
Mùi Mão Thìn Tị Ngọ
Thân Thìn Tị Ngọ Mùi
Dậu Tị Ngọ Mùi Thân
Tuất Ngọ Mùi Thân Dậu
Hợi Mùi Thân Dậu Tuất
Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
Giờ Tướng Thái xung Tướng công tào Tướng Đại cát Tướng Thân Hậu
Tý Tý Sửu Dần Mão
Sửu Sửu Dần Mão Thìn
Dần Dần Mão Thìn Tị
Mão Mão Thìn Tị Ngọ
Thìn Thìn Tị Ngọ Mùi
Tị Tị Ngọ Mùi Thân
Ngọ Ngọ Mùi Thân Dậu
Mùi Mùi Thân Dậu Tuất
Thân Thân Dậu Tuất Hợi
Dậu Dậu Tuất Hợi Tý
Tuất Tuất Hợi Tý Sửu
Hợi Hợi Tý Sửu Dần
Tổng luận Thái dương trăm cung thì các phương: Thiên tam môn, Địa tứ hộ, Địa tư môn, Thái xung, Thiên mã cùng lộ.


Âm Dương Quý nhân, Quý sớm, Quý chiều:
Quý Sớm dùng 1 chữ ở trên tức bàn trong ẤT Tốn Bính Đinh Khôn Canh 6 giờ.
Quý Chiều dùng 1 chữ ở dưới, tức bàn trong Tân Kiền Nhâm Quý Cấn Giáp 6 giờ.
Cung mà Quý thần tới, từ Hợi đến Thìn là Chi dương, chuyển xuôi. Từ Tị đến Tuất là chi âm, chuyển ngược. Hai bàn nên hợp suy. Dùng sớm mà phân thì biết giáp. Ở cung Mão, dùng Quý chiều, Tốn ở cung Tị dùng Quý sớm.
Giả như: Tháng giêng, sau Vũ thủy, Thái dương triền cung Thư tỷ, nguyệt tướng ở Hợi, thì lấy hợi gia trên giờ xem. Để phân Sớm Chiều, xét âm dương, cùng nhìn xem Quý thần đến cung nào, thấy là Chi Dương nên chuyển thuận, là chi âm phải chuyển nghịch để cầu ngôi của bá thần ở đây.
Giả như ngày Giáp dung giờ Mão, thuộc chữ ở dưới, dung Quý sớm, định là Quý dương. Lấy Hợi trên Mão, chuyển thuận dương quý là Mùi ở hợi. hợi là chi dương, đặt quý thần chuyển thuận, Lục hợp ở Dần, Thái thường ở Mùi, Thái âm ở Dậu.
Giả như ngày Giáp, dung giờ Ngọ, thuộc chữ ở trên, dung Quý sớm, định là Quý âm. Lấy Hợi trên cung Ngọ, chuyển thuận. Quý âm là Sửu ở Thân, Thân là chi âm, đặt Quý thần chuyển ngược, Thái âm ở Tuất, Thái thường ở Tý, Lục hợp ở Tị….
Giả như ngày Giáp, dung giờ Tý, thuộc chữ ở dưới, dùng Quý chiều, định là Quý dương. Lấy Hợi trên Tý, chuyển thuận, Quý dương là Mùi tới Thân, Thân là Chi âm, bày Quý thần chuyển nghịch. Thái âm ở Tuất, Thái thường ở Tý, Lục hợp ở Tị. Ngoài ra đều phỏng thế.

Bài ca Quý dương như sau: Bài Ca Quý âm như sau:
Canh mậu tìm Trâu, giáp kiếm Dê Canh Mậu dê kêu, giáp gọi trâu.
Ất hầu, Kỷ chuột, Bính gà quê. Kỷ hầu, Ất chuột, bính heo sau.
Đinh heo, Quý rắn, Nhâm tìm thỏ. Đinh gà cục tác, Tân tìm ngựa.
Tân Hổ ngồi dương quý đã đề. Nhâm rắn mà can Quý thỏ chầu.

Luận Thiên môn Địa hộ
Ca nhập thức rằng: Thiên ất hội hợp nữ âm tư. Coi việc Thiên ất hội hợi nữ âm tư, cần ở ba kỳ trên sáu nghi. Với ba kỳ cát môn, hợp Thái xung, Tiểu cát, Tòng khôi là Thiên Tam môn. Trên Trừ, Định, Nguy, Khai là Địa tứ hộ. Được thế là phúc ăn uống, đi xa ra vào đều cát.
Ca rằng:
Hãy bầy Nguyệt tướng trên chi giờ.
Mười hai thần tướng chuyển xuôi bờ,
Thái xung, Tiểu cát, Tòng khôi thấy,
Thiên tam môn đó phúc đang chờ.
Hãy lấy nguyệt tướng trên chi giờ bày thuận.
Giả như: tháng giêng sau Vũ thủy, dung giờ Ngọ ra đi. Lấy tướng Đăng minh trên can cung Ngọ, Đăng minh ở Ngọ. Thần hậu ở Mùi, Đại cát ở Thân, Công tào ở Dậu, thái xung ở tuất là Thiên môn, Thiên cương ở Hợi, Thái ất ở Tý, Thắng quang ở Sửu, Tiểu cát ở Dần là Thiên môn, Truyền tống ở Mão, Tòng khôi ở Thìn là Thiên môn, Hà khôi ở Tị.
Lấy giờ Niên thư xét định Thái dương qua cung mới nên tuyển dụng. Như năm qua, sau Đại hàn, ngày giờ…….Nhật triền trong cung Nguyên hao, Thái dương tại Tý. Lấy tướng Thần hậu bầy trên giờ dùng.
Đã biết Đăng minh là Tướng tháng giêng, lại không biết chăng, sau Vũ thủy, ngày giờ mở…..Nhật triền cung hư tý, Thái dương mới sang qua cung Hợi, mới có thể dung Tướng Đăng minh rồi luận đi. Gặp Tòng khôi, Tiểu cát, Thái xung là Thiên tam môn. Ví được hôm nay, Quý thần đến Kiền Hợi, tức là Quý thần đăng Thiên môn, đại cát.
















































































Thiên nguyệt tướng – tức Thái dương
Tháng giêng : Hợi Tháng 5 : Mùi Tháng 9 : Mão.
Tháng 2 : Tuất Tháng 6 : Ngọ Tháng 10 : Dần
Tháng 3 : Dậu Tháng 7 : Tị Tháng 11 : Sửu
Tháng 4 : Thân Tháng 8 : Thìn Tháng 12 : Tý.

Địa Nguyệt tướng – tức Kiền
Tháng giêng : Dần Tháng 5 : Ngọ Tháng 9 : Tuất
Tháng 2 : Mão Tháng 6 : Mùi Tháng 10 : Hợi
Tháng 3 : Thìn Tháng 7 : Thân Tháng 11 : Tý
Tháng 4 : Tị Tháng 8 : Dậu Tháng 12 : Sửu.

Thiên khí tướng
Tháng giêng : Vũ thủy (Nhâm) Tháng 7 : Sử thử (Bính).
Tháng 2 : Xuân phân (kiền) Tháng 8 : Thu phân (Tống).
Tháng 3 : Cốc vũ (Tân) Tháng 9 : Sương giáng (Ất).
Tháng 4 : Tiểu mãn (Canh) Tháng 10 : Lập đông (Giáp)
Tháng 5 : Hạ chí (Khôn) Tháng 11 : Đông chí (Cấn)
Tháng 6 : Đại thử (Đinh) Tháng 12 : Đại hàn (Quý).
Địa khí tướng
Tháng giêng : Lập xuân (Tý) Tháng 7 : Lập thu (Ngọ)
Tháng 2 : Kinh chập (Hợi) Tháng 8 : Bạch lộ (Tị)
Tháng 3 : Thanh minh (Tuất) Tháng 9 : Hàn lộ (Thìn)
Tháng 4 : Lập hạ (Dậu) Tháng 10 : Lập đông (Mão)
Tháng 5 : Mang chủng (Thân) Tháng 11 : Đại tuyết (Dần)
Tháng 6 : Tiểu thử (Mùi) Tháng 12 : Tiểu hàn (Sửu).
Đường lạc Thiên phù (Thiên phù kinh)
Tháng giêng : Thư tỷ (Hợi) Tháng 7 : Thuần Vỹ (Tị)
Tháng 2 : Giáng lâu (Tuất) Tháng 8 : Thọ tinh (Thìn)
Tháng 3 : Đại lương (Dậu) Tháng 9 : Đại hỏa (Mão)
Tháng 4 : Thục trầm (Thân) Tháng 10 : Triết mộc (Dần)
Tháng 5 : Thuần thủ (Mùi) Tháng 11 : Tinh kỳ (Sửu)
Tháng 6 : Thuần hỏa (Ngọ) Tháng 12 : Nguyên Hao (Tý)
Thần tướng 12 chi
TỊ NGỌ MÙI THÂN
Tướng Thái ất Thắng quang Tiểu cát Truyền tống Tướng
Thần Đằng xà Chu tước Thái thường Bạch hổ Thần
THÌN DẬU
Tướng Thiên cương Tòng khôi Tướng
Thần Câu trận Thái âm Thần
MÃO TUẤT
Tướng Thái xung Hà khôi Tướng
Thần Lục hợp Thiên không Thần
DẦN SỬU TÝ HỢI
Tướng Công tào Đại cát Thần hậu Đăng minh Tướng
Thần Thanh long Thiên ất Thiên hậu Huyền vũ Thần

Địa Tứ hộ
Ca rằng:
Dụng thần Nguyệt kiến đặt tên Chi,
Kiến, Trừ, Mãn, Bính, Định tính trở đi.
Định, Chấp, Phá, Nguy đưa tiếp nối,
Thành, Thu, Khai, Bế một vòng vi.
Trừ Định Nguy Khai là tứ hộ,
Gặp nạn, phương này lánh được nguy.
Lấy Nguyệt kiến bầy trên giờ dụng, chuyển thuận. Như tháng Dần giờ Dần, thì trên Dần khởi Kiến, Trừ trên Mão, Định đến Ngọ, Nguy đến Dậu, Khai đến Tý. Có ba kỳ tới đây thì đại cát. Ví được thêm ba môn cát thì càng hay. Ngoài ra phỏng thế.
Như tháng 9 Kiến Tuất, dùng giờ Tị, thì lấy Tuất gia lên Tị. An Kiến ở Tị, Trừ ở Ngọ, Ngọ là Địa hộ, Mãn ở Mùi, Bình ở Thần, Định ở Dậu, Dậu là Địa hộ, Chấp ở Tuất, Phá ở Hợi, Nguy ở Tý, Tý là Địa hộ, Thành ở Sửu, Thu ở Dần, Khai ở Mão, Mão là Địa hộ, Bế ở Thìn. Tý Ngọ Mão Dậu, 4 cung ấy là Địa tứ hộ, đều cát.

Địa tư môn
Lấy Thiên nguyệt tướng bàu trên giờ dụng. Tìm xem Quý thần tới cung nào thì từ cung ấy bầy Quý thần, Đằng xà, Chu tước, Lục hợp, Câu trận, Thanh long, Thiên không, Thái thường, Huyền vũ, Thái âm, Thiên hậu, tùy khi mà bầy thuận hay nghịch. Dương Quý thần xuất từ Thân tiên thiên. Trên Tý khởi Giáp Tý, bày thuận, Ất Quý ở, Dần với Ất hợp, Tuất với Quý Hợp. Lấy Can Đức làm Quý thần, cho nên Canh Mậu 2 can, dương Quý ở Sửu, Tị Ngọ tại Mùi. Giáp với Tị hợp, cho nên Giáp Ngọ dương Quý thần ở Mùi.
Từ hợi đến Thìn là Dương, Quý thần chuyển thuận. Từ Tị đến Tuất là âm, Quý thần chuyển ngược. Ví được thần Thái âm, Thái thường, Lục hợp, với Kỳ Môn cùng tới hội, thì phương ấy trăm việc đều đại cát. Thần dương thì nên kích, thần âm nên giữ hiểm, Dương thì đánh trước, Âm thì ứng sau. Phàm muốn kích thì phá mà kích, muốn giữ hiểm thì ngấm ngầm mà đi. Quân bại thì hướng về Lục hợp tất ra được.
Ba thần: Lục hợp, Thái âm, Thái thường, chiếu hình số mà xem phương ấy thuộc Chi nào. Tý đến Tị là Dương, dung Quý Thần dương. Từ Ngọ đến Hợi là Âm, dung Quý thần âm.
Giả như: ngày Đinh hợi, Hợi thuộc phần Dương. Bính Đinh Trư Kê vị, thì Hợi là Quý thần của ngày Dương. Hãy đem Quý thần bày trên Hợi, thuận chuyển. Rồi xem Lục hợp Thái âm, Thái thường tới cung nào, xứ nào, tức đấy là Địa tư môn. Chỉ luận ngày, không luận giờ, nhưng phải được Kỳ Môn mới nên dùng.
Lại còn một lệ:
Xét Thái thường quá cung, lấy Nguyệt tướng trên giờ dụng. Tìm việc xem bày Quý thần, để tìm Địa tư môn. Như tháng giêng Hợi, trên ngày Giáp, giờ Thìn. Tức lấy Hợi trên Thìn bầy thuận, tìm bản nhật dương quý là Mùi tới Tý. Dương Quý đi thuận thì Đằng xà tại Sửu, Chu tước tại Dần, Lục hợp tại Mão là Địa tư môn, Câu trận tại Thìn, Thanh long tại Tị, Thiên không tại Ngọ, bạch hổ tại mùi, Thái thường tại Thân là Địa tư môn, Huyền vũ tại Dậu, Thái âm tại Tuất là Địa tư môn, Thiên hậu tại Hợi. Như dùng âm quý thì cũng lấy Hợi trên Thìn, Âm Quý Sửu tới Ngọ, Âm Quý đi ngược thì Đằng xà tại Tị, Chu tước tại Thìn, Lục hợp tại Mão là Địa tư môn, Câu trận tại Dần, Thanh long tại Sửu, Thiên không tại Tý, Bạch hổ tại Hợi, Thái thường tại Tuất là Địa tư môn, Huyền vũ tại Dậu, Thái âm tại Thân là Địa tư môn, Thiên hậu Mùi. Ngoài ra đều phỏng thế.

















































Tam kỳ khắc ứng
Kỳ Ất gặp Khai: bọn lại già,
Hưu: người khiêng gỗ, ngựa trâu qua.
Sinh: hai chuột cắn và con hiếu,
Ra cửa vừa hay gặp mụ già.
Kỳ đinh gặp Khai: tiếng sấm ran,
Ông già chống gậy, gió gào Càn.
Hưu môn: trống nhạc năm mươi dặm,
Sinh: người bệnh mắt đánh nhau tàn,
Đinh gặp Khai: người gậy trúc trông,
Hưu: bà đón trắng, hai chục dặm,
Sinh: người săn bắn, chó đem theo,
Kỳ môn hợp Sử đều ứng nghiệm.

Ba kỳ hội ba môn cát ứng nghiệm
Ất là Nhật kỳ:
Hội cửa Sinh, nên ra làm quan, nhậm chức, ứng cử, giá thú, đào đất, làm tờ khoán, chôn cất.
Thấy 2 chuột hoặc người con mặc hiếu, có trăm chim, gió mây mưa lâm thâm, xe ngựa lại làm ứng, thì chủ con cháu phú quý.
Hội Hưu môn, thấy Trâu ngựa, hoặc người chặt cây lại làm ứng.
Hội Khai môn, gặp người công chức ở vùng khác mặc áo đỏ đến.
-Bính là Nguyệt Kỳ:
Hội cửa Sinh, thấy người mắt có tật, hoặc việc tranh đấu làm ứng.
Hội cửa Hưu, nên ra làm quan, nhậm chức, ứng cử, giá thú, đào đất, làm tờ khoán, dựng cột, làm nhà. Trong ngoài 50 dặm, nghe tiếng nhạc tiếng trống, hoặc quân khí, nhạc khí, chim đén, hạc trắng đến ứng, chủ con cháu phú quý.
Hội cửa Khai, chủ thấy ông già chống gậy, hoặc nghe tiếng khóc làm ứng.
-Sinh là Tinh Kỳ:
Hội cửa Sinh, gặp người đi săn hoặc chim nhạn, con chó làm ứng.
Hội cửa Hưu, 20 dặm gặp Hổ trắng, người áo đen hoặc phụ nữ làm ứng.
Hội cửa Khai, nên ra làm quan, nhậm chức, giá thú, dựng cột, làm nhà, chuyển đồ. Thấy xe lớn xe nhỏ, mây trắng che phủ hoặc trẻ nhỏ, tay cầm roi, cầm gậy thì ứng con cháu sẽ phú quý.

Tam kỳ hợp cách đoán
Kỳ Ất gặp Thanh long phản thủ,
Kỳ Bính, mặt Đông Nam là Điệt huyệt,
Kỳ Đinh, Tây, ngưới quý đăng đàn,
Hổi thủ vui mừng, mọi trao đổi vừa ý,
Điệt huyệt biểu dương, việc thành tưu,
Long đào, thân gặp mọi hung,
Hổ cuồng, tài vật hư hao,
Yêu kiều: trộm cắp việc cửa công.

Phù sử ứng nghiệm
Kỳ Ất hội Thiên phụ, cửa Sinh, chủ ngày giờ Ất Canh có sấm chớp, hiệu hai chim lại làm ứng thì đại lợi.
Kỳ Bính hội Thiên nhuế, cửa Hưu, chủ ngày giờ Giáp Kỷ, chim hạc đến, 2 người cưỡi ngựa lại làm ứng thì đại cát.
Kỳ Đinh hội Thiên Anh, cửa Khai chủ ngày giờ Mậu Quý, có chim đen gáy trắng kêu âm ĩ lại là ứng thì đại cát.
Sao Thiên bàn khắc sao Địa bàn, trong 4 mùa, gặp ngày giờ Vượng Tướng, có mây 5 sắc ở bản phương, thì phương ấy trợ khách và khách thắng.
Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn, trong 4 mùa, gặp ngày giờ vượng tướng, có mây ngũ sắc ở bản phương thì phương ấy trợ Chủ và Chủ thắng.
Khí mây ngũ sắc, hợp theo bản phương: Đông xanh, Tây trắng, giữa vàng, Nam đỏ, Bắc đen.

Tám môn khắc ứng
Cửa Hưu, 20 dặm, gặp quý âm nhân, mặc có mầu lam, vàng và trắng xanh.
Cửa Sinh: 10 dặm, gặp người công chức mặc áo đen, đai tía.
Cửa Thương, 30 dặm, kiện cáo mọc, người tù mặc áo đen, sẽ sinh đổ máu.
Cửa Đỗ, 20 dặm, có lũ trẻ trai gái, quần thắt dải lụa đen, theo nhau đi.
Cửa Kinh, 80 dặm, quạ khoang kêu, liên miên việc công, sáu giống nuôi kinh khủng.
Cửa Khai, 20 dặm, người dương đến, người quý cưỡi ngựa mặc áo tía.
Cửa Cảnh, 20 dặm, lo sợ đến, người áo đỏ đen hội tân khách.
Cửa Tủ, 20 dặm gặp tật bệnh, người mặc áo giáp vàng đen đều gặp truân.

Mười can ứng nghiệm
Giờ gặp sáu Giáp: đi ra cửa, ngựa vàng xe ngọc, gặp người quý.
Gặp sáu Ất: ra cửa gặp người công lại đầu hói.
Nếu suốt đời mang cung nỏ, đi ngựa, che lọng là gặp giờ sáu Bính.
Gặp quan hoàng châu và huyện tể cùng đi là gặp giờ sáu Đinh.
Nếu gặp Mậu Kỷ, gặp 2 người đàn bà áo xanh.
Ví gặp Canh Tân Nhâm thì rất ác, đại hung, không có cát, có tai truân.
Sáu quý ra cửa gặp người đi săn cưỡi ngựa. Gặp nhiều người miền núi, người ẩn dật.

Tám thần ứng nghiệm
Trực phù ứng vào bậc trưởng giả, quý nhân, người công lại, tiền vật.
Đằng xà chủ quan tư liên mien, vó lưới, thổi gió, đùn mưa và kinh khủng quái lạ làm ứng.
Thái âm chủ người hiền và vợ chồng, việc riêng ngầm làm ứng.
Lục hợp chủ hoa nhiều màu, xe thư, rươu chè, hội hè, tiệc tùng, hôn nhân làm ứng.
Bạch hổ chủ thầy thuốc, thầy Đồng, chết chôn, khí uế, tiền vật làm ứng.
Huyền vũ chủ sợ hãi, trộm cắp, mây mưa làm ứng.
Cửa địa chủ con gái, áo mặc, lúa đậu, chôn cất, giống thú chạy làm ứng.
Cửu Thiên củ văn thư ấn tín, thương bổng, lửa tốt, xem trời là chim bay làm ứng.

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 17

Ba kỳ đến cung đoán
- Sáu Ất đến Kiền gọi là Ngọc thỏ nhập Thiên môn (thỏ ngọc vào cửa trời), cát. Thiên Xung, thiên Phụ trên cung 6, vào ngày cuối hạ hay tháng Thu, hoặc ngày Canh Tân Thân Dậu, có khí mây trắng lại trợ thì Chủ thắng. Một tên gọi Ngọc thỏ nhập lâm (Thỏ ngọc vào rừng).
-Sáu Bính tới Kiền gọi là Thiên thành thiên quyền (tự nhiên thành quyền trời), hung. Có khí mây trắng từ Tây Bắc hoặc Chính Tây đến trợ, chủ thắng. Thiên Anh trên cung 6, vào tháng hạ, có khí mây sắc đỏ đến trợ thì khách thắng. Một tên là Quang minh bất toàn (sáng sửa không vẹn).
-Sáu Đinh tới Kiền, gọi là Hỏa đáo Thiên môn (lửa tới cửa trời), cát. Ngày Bính Đinh Tị Ngọ có khí mây đỏ từ chính Nam lại trợ thì khách thắng. Một tên là ngọc nữ du thiên môn (nàng ngọc chơi ở cửa trời). Còn tên là Hỏa chiếu Thiên môn (Lửa chiếu cửa trời).
-Sáu Ất tới Khảm gọi là Ngọc thỏ đầu tuyền (Thỏ ngọc xuống suối), cát. Thiên Anh trên cung 1vào tháng Thu Đông hoặc ngày Nhâm Quý Hợi Tý, có khí mây đen từ phương Bắc lại trợ thì chủ thắng. Một tên là Ngọc thỏ âm tuyền (ngọc thỏ uống suối).
-Sáu Bính trên Khảm gọi là Bính hỏa thiêu Nhâm (lửa bính đốt nhâm) cát. Thiên Nhậm, Thiên Cầm, Thiên nhuế trên cung 1, vào 4 tháng Quý hoặc ngày Thìn Tuất Sửu Mùi. Một tên là Hỏa đầu Thủy trì (lửa ném ao nước).
-Sáu Đinh trên Khảm gọi là Chu tước đầu giang (sẻ non lao sông), trung cát. Có khí mây sắc vàng từ Đông Bắc hoặc Tây Nam đến trợ thì khách thắng.
-Sáu Ất tới Cấn gọi là Ngọc thỏ bộ trách(Thỏ ngọc bước phải), cát. Thiên Bồng tới cung 8, vào 4 tháng Quý, hoặc ngày Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi có khí mây vàng đến trợ thì Chủ thắng.
-Sáu Bính tới Cấn gọi là Phượng nhập đan sơn (phượng vào núi son), cát. Có khí mây vàng từ Đông Bắc hoặc Tây Nam lại trợ, Chủ thắng. Thiên Xung Thiên Phụ tới cung 8, vào tháng Đông Xuân….
-Sáu Đinh tới Cấn gọi là Ngọc nữ thừa vân (nàng ngọc cưỡi mây), cát. Ngày Giáp Ất Dần Mão, có khí mây xanh từ chính Đông hoặc Đông Nam lại trợ thì Khách thắng. Một tên gọi là Ngọc nữ du Quỷ môn (nàng ngọc chơi cửa Quỷ).
-Sáu Ất tới Chấn gọi là Nhật xuất phù tang (nhật mọc trong đám cây thần), cát. Thiên Nhậm, Thiên Cầm, Thiên nhuế trên cung 3, vào tháng Đông Hạ hoặc ngày Giáp Ất Dần Mão có mây xanh lại trợ thì Chủ thắng. Tức Quý nhân thăng Ất Mão chính điện.
-Sáu Bính tới Chấn gọi là Nguyệt nhập lôi môn (Nguyệt vào cửa sấm), cát. Có khí mây xanh từ Chính Đông hay Đông nam lại trợ, chủ thắng. Thiên Phụ, Thiên Nhậm trên cung 3, vào tháng cuối thu, Thiên trụ dễ bị mê hoặc.
-Sáu Đinh tới Chấn gọi là Tối Minh (rất sáng), cát. Ngày Canh Tân Thân Dậu có khí mây trắng từ chính tây hoặc tây bắc lại trợ thì Khách thắng.
-Sáu Ất tới Tốn gọi là Ngọc thỏ thừa phong (Thỏ ngọc cưỡi gió), cát. Thiê Nhậm Thiên Cầm Thiên Nhuế trên cung 4, vào tháng Đông, Xuân hoặc ngày Giáp Ất Dần Mão, có khí mây sắc xanh lại trợ thì Chủ thắng.
-Sáu Bính tới Tốn gọi là Hỏa hành phong khởi (lửa cháy gió thổi), lại là Long thần trợ uy (Thần rồng trợ uy), cát. Thần phương Đông nam vượng thì Chủ thắng. Thiên Tâm Thiên Trụ trên cung 4, vào tháng cuối hạ, Thu….
-Sáu Đinh tới Tốn gọi là Mỹ nữ lưu thần (Người đẹp giữ thần), cát. Ngày Canh Tân Thân Dậu, có khí mây trắng từ chính Tây hoặc Tây bắc lại trợ, Khách thắng.
-Sáu Ất tới Ly gọi là Ngọc Thỏ Dương Dương, cát. Thiên Trụ Thiên Tâm trên cung 9, vào tháng Xuân Hạ hoặc ngày Bính Đinh Tị Ngọ có khí mây đỏ lại trợ, Chủ thắng.
-Sáu Bính tới Ly gọi là Nguyệt chiếu Đoan môn (Trăng soi cửa thành), cát. Có khí mây đỏ từ phương Nam lại trợ, Chủ thắng. Thiên Bồng trên cung 9 vào tháng Thu hoặc ngày Nhâm Quý là Quý nhân thăng Bính Ngọ chính điện.
-Sáu Đinh tới Ly gọi là thừa long vạn lý (cưỡi rồng muôn dặm). Ngày Nhâm Quý Hợi Tý có mây đen từ chính Bắc lại trợ thì Khách thắng.
-Sáu Ất tới Khôn gọi là Ngọc thỏ nhập Khôn trung ( Thỏ ngọc vào giữa long đất), cát. Thiên Bồng đến cung 2, vào 4 tháng tứ Quý, hoặc ngày mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi, có khí mây vàng từ phương Bắc lại trợ, Chủ thắng. Còn một tên gọi khác là Ngọc thỏ ám nhật (ngọ thỏ che mặt trời).
-Sáu Bính tới Khôn, gọi là Tử cư mẫu xá (con ở nhà mẹ), cát. Khí mây từ nam lại trợ thì Chủ thắng. Thiên phụ Thiên xung trên cung 2, vào tháng Đông, Xuân hoặc ngày Giáp thì cát.
-Sáu Đinh trên Khôn, gọi là Ngọc nữ du Địa hộ (nàng Ngọc chơi ở cửa đất), cát. Ngày Giáp Ất Dần Mão có khí mây xanh từ Chính Đông hay Đông Nam lại trợ, Khách thắng, đại cát.
-Sáu Ất tới Đoài, ngọc nữ thụ chế (nàng Ngọc chịu bó), bình bình. Thiên xung Thiên Phụ trên cung 7, vào tháng cuối Hạ, tháng Thu, hoặc ngày Canh Tân Thân Dậu, có khí mây trắng lại trợ thì Chủ thắng. Một tên gọi khác là Ngọc thỏ du quan (Thỏ trắng bơi quan), cát.
-Sáu Bính trên Đoài, gọi là phượng hoàng chiết xí (phượng hoàng gẫy cánh), hung. Có mây trắng từ chính Tây hoặc Tây Bắc lại trợ, Chủ thắng. Thiên Anh trên cung 7, vào tháng Xuân Hạ và ngày bính thì Khách thắng.
-Sáu Đinh tới Đoài, thì bình thường. Ngày Bính Đinh Tị Ngọ, có khí mây đỏ từ phương Nam lại trợ, Khách thắng. Còn nói Đinh thấy Đoài là Thiên ất Quý nhân, tức Quý thăng Đinh Dậu chính điện, đại cát.

Độn giáp lợi Chủ
Lấy đến trước là Chủ, đến sau là Khách.
Thiên Anh trên Khảm, lợi Chủ. Như vào tháng Thu Đông và ngày Nhâm Quý Hợi Tý, có sắc mây đen từ phương Bắc lại trợ, Chủ đại thắng.
Thiên Nhậm, Thiên Cầm trên Chấn Tốn, lợi Chủ. Như vào tháng Xuân Hạ và ngày Giáp Ất Dần Mão, có khí mây xanh từ Đông Nam lại trợ, Chủ đại thắng.
Thiên Bồng trên Khôn Cấn, lợi Chủ. Như vào 4 tháng Quý và ngày Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi, có khí mây sắc vàng từ Đông Bắc hoặc Tây Nam lại trợ, Chủ đại thắng.

Độn giáp lợi khách
Thiên Bồng trên cung 9, lợi Khách. Như vào tháng Thu Đông và ngày Nhâm Quý Hợi Tý, có khí mây đen từ phương Bắc lại trợ thì Khách thắng.
Thiên Tâm, Thiên trụ trên cung 3-4, lợi Khách. Như trong 3 tháng Thu, Bốn tháng Quý và ngày Canh Tân Thân Dậu, có khí mây trắng từ phương Tây lại trợ, Khách thắng.
Thiên Nhậm, Thiên Cầm, Thiên nhuế trên cung 2, lợi Khách. Như vào 4 tháng Quý và ngày Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi có khí mây vàng từ phương Tây nam hoặc chính Nam lại trợ thì Khách đại thắng.
Thiên phụ, Thiên Xung trên cung 2-8 thì lợi Khách. Như vào Tháng Đông, Xuân, ngày Giáp Ất Dần Mão, có khí mây xanh từ phương Đông hoặc Đông nam lại trợ, Khách đại thắng.
Thiên Anh trên cung 6-7, lợi Khách. Như vào tháng Xuân Hè, ngày Bính Đinh Tị Ngọ, có khí mây đỏ từ phương Nam lại trợ thì Khách đại thắng.


Chín Tinh gặp giờ khắc ứng
Luận giờ dụng, lấy 9 tinh quân việc làm chủ.

Tinh Thiên Bồng: Gặp giờ Tý, đến ở, hung. Phó nhậm yên. Làm cửa sinh kiện tụng. Gà chó kêu. Chim đánh nhau trong rừng. Phương Bắc, chim bằng tranh nhau. Người sứt môi. Trong 60 ngày, gà đẻ trứng, hao tài, thời đến. Công tất thắng.

Tinh Thiên nhuế: Gặp giờ Tý, thân vượng hưng. Giờ tác dụng, chim thú hoảng. Phương Khôn lửa bốc. Hai người ứng giá thú. Lơn chó cắn thương, người kiện cáo. Trong 60 ngày, con gái thắt cổ chết. Thu Đông có tài, Vũ – Âm – trân.

Tinh Thiên Xung: Gặp giờ Tý, có gió mưa, chim kêu, chuông đánh. Sau tạo tang, trong 60 ngày, vật quái vào. Trong 1 năm, ruộng vườn bội số thu. Nên phòng vợ mới sản hậu chết. Trong miệng giống hổ lang Khả - Đắc – Tài.

Tinh Thiên Phụ: Gặp giờ Tý, ví là Phản ngâm, trong Trời có vật nửa đêm kêu. Người đỏ trắng phương Tây kêu ứng. Sau khi tạo táng, tới 60 ngày được biên sản vật của người Âm Thương. Vượn đồng vào nhà. Nồi đất kêu thì gia quan tiến chức, sinh quý tử. Ví được Môn Kỳ cùng tới thì 12 năm mạnh vượng.

Tinh Thiên Cầm: Gặp giờ Tý, bà chửa đến. Người áo tía lại. Sau tạo táng 60 ngày, gà chó ngậm hoa. Người kho biếu vật. Võ lên quan chức. Ruộng đất tiền thóc nhiều lên, vượng. 20 năm sau số người trong nhà tới nghìn.

Tinh Thiên Tâm: Gặp giờ Tý, người tranh đấu. Phương Tây Bắc trống khua ầm ỹ. Dụng sao 100 ngày, người đó làm môi giới cho người Âm Thương vật cổ, vẽ nhà tiên, sinh gà trắng. Trong 12 năm ruộng tằm đại vượng. Chư công liên liên.

Tinh Thiên Trụ: Gặp giờ Tý, khởi gió to. Lửa từ Đông đến. Người sứt môi. Sau dụng trong 60 ngày việc trong rắn chó cắn thương người. Gặp dao nhọn giết người, đổ máu, tiền tài phá tán. Gái nhỏ gặp ương tất định lâm.

Tinh Thiên Nhậm: Gặp giờ Tý, bên Đông gió mưa. Bên nước gà gáy là ứng nghiệm. Phương Tốn người lại cầm đao thương. Sau tạo táng, 100 ngày, vợ mới rụng 3 răng. Người có râu họ Mộc đến. Vì ỷ người mà tài sản hao hụt. Con trai, con gái dâm.

Tinh Thiên Ương: Gặp giờ Tý, kiền tiếng thanh la. 3-5 người cầm lửa đốt, vác búa rìu chặt cây. Người sứt môi. Sau dụng phá nhà. Trong 3 năm đổ máu, tự vẫn, thương người vật. Trẻ con phải bỏng Hỏa khang trung.

Tinh Thiên Bồng: Gặp giờ Sửu sấm chớp. Cây bị gió mưa đổ thương người. 7 ngày gà đẻ trứng ngan. Cho đến nhà trên, trẻ con khuynh. 3 năm sau có người đầu bạc răng long âm thương cho nhà. Vượng. 10 năm thì suy.

Tinh Thiên Nhuế: Gặp giờ Sửu, khi tác dụng, đất Kiền chiêng trống đến. Sau tạo táng 7 ngày, rùa ra rừng. Trong 60 ngày trộm cắp dấy lên, hao tài, miệng tiếng. Kiện tụng đến đại cô nhiều lần. Sách-khu-lễ.

Tinh Thiên Xung: Gặp giờ Sửu, mây sương mù. Trẻ nhỏ thành đội lại, lên nhà. Đàn bà mang gỗ đến, ứng mèo đen con trắng. Nhặt được kính cổ. Hết năm, nhà sư cho ruộng khế, phát tài, sinh đẻ quý tử.

Tinh Thiên Phụ: Gặp Sửu, cho Đông sủa. Có người cầm dao lại đánh. Sau dụng, thỏ bạch, gà đồng vào. Trong 60 ngày có nhà tu biếu vật. Người âm Vũ phương Tốn lại. Tín khế về. Hết 1 năm, them người, them quan phẩm.

Tinh Thiên Cầm: Gặp giờ Sửu, người đàn bà có tang đến, tay cầm đồ bằng thiếc. làm mai táng. Trẻ nhỏ thổi sáo, cười, vỗ tay. Trống khua. Sau rồi đánh bạo ngược. Được tờ cáo bán. Sau năm thu được tài của giặc, phú vượng lâu lại.

Tinh Thiên Tâm: Gặp giờ Sửu, giờ tác dụng, phương Nam lửa cháy. Người gẫy chân. Trong 5 ngày, có mèo thành đôi, 40 ngày vật ở xa đến. Người âm Thương đem thư và cho tiền của. Trong cung có người thọ ra.

Tinh Thiên Trụ: gặp giờ Sửu, người thợ từ Bắc lại, tay cầm búa rìu. Trên cây sinh hoa vàng làm ứng, sau 60 ngày thêm tiền tài, đồ kim khí của người âm Vũ. 3 năm sau lửa cháy sạch. Nhàn – lộng – xà.

Tinh Thiên Nhậm: Gặp giờ Sửu, người đàn bà áo xanh đem rượu đến, tất nhiên có tiếng bì bạch. Sau nửa năm, thêm tiền tài của người vô danh. Sau 1 năm chim Anh vũ vào nhà. Nhân cãi cọ mà được tiền tài. Sau 3 năm mèo chó cắn nhau. Chủ Thinh Cử.

Tinh Thiên Ương: Gặp giờ Sửu, thấy sư ở Đông Bắc lại. Thầy đồng gõ thanh la đến. Sau 1 tháng, lửa đốt nhà. Sau 1 năm có người chức lớn nơi trảm quái nổi dậy. Lúc ấy có thể rời nhà. Không thế thì chết liền.

Tinh Thiên Bồng: Gặp giờ Dần, giờ tác dụng có đồng tử áo xanh cầm ống tay áo, phương Bắc có nhà tu đầu đội khăn. Người con gái mặc quần màu sặc sỡ tới. Rắn tặc cắn ngựa thương người. Ba năm, đất cát tiền của vượng tới.

Tinh Thiên Nhuế: Gặp giờ Dần, đàn bà xấu xí có bầu đến cửa có nhạc khí. Được Kỳ môn vượng tướng thì 60 ngày trâu nước vào, thêm tiền tài, gia quan, tiến chức, con cháu đầy đủ, Ngọ tại khắc tài.

Tinh Thiên Xung: Gặp giờ Dần, người Quý đi kiệu. Trẻ đồng cầm đồ vật bằng vàng bạc đến. 20 ngày thêm tờ khế của người âm Vũ làm môi giới. 60 gà mái mẹ kêu. Chủ chết người can âm. Phúc lộc tài hung.

Tinh Thiên Phụ: Gặp giờ Dần, thấy người công lại cầm khuyết nghị mang vật đến. Trong 60 ngày mèo cắn gà. Có kẻ đưa tiền tài báo ân nghĩa. Người mặt đỏ làm môi giới người âm Vũ. 12 năm phát sinh quý tử.

Tinh Thiên Cầm: gặp Dần, chủ chó căn gà vàng kêu loạn. Người đội nón thu. Sau dụng 60 ngày, có mừng về người âm Cung và Thương cho thêm tờ khế. Người, ruộng, tằm, đại vượng hanh. Phú quý đủ vượng, tức khắc có ứng tình.

Tinh Thiên Tâm: Gặp giờ Dần, cò trắng đến. Trông chiêng 4 mặt nổi dậy. Kính nước rõ. Người nữ mặc áo vàng đỏ xách giỏ qua. Trẻ nhỏ, lửa bốc ngọn. từ 60 đến 100 ngày, chứa hầm vàng, vật của người âm Thương và vũ. 3 năm sinh con quý, được tiền của.

Tinh Thiên Trụ: gặp giờ Dần, phương Bắc ồn ào. Thấy tăng đạo cầm lọng. Sấm mưa đến. Mừng được trống khua. Về sau trong 60 ngày giặc luôn luôn tranh tụng, phá tài. Xong việc thì người gái ngã đẻ non rồi sau chết.

Tinh Thiên Nhậm: Gặp giờ Dần, đợi nhà gái cắp lửa đi trước. Trẻ đồng vỗ tay. Kiệu ngựa phương Tây Bắc lại. Táng xong, trong 60 ngày, nồi đất kêu, vợ ngã chết. 100 ngày thêm súc vật. Ruộng nương tiền của vượng. Người sứt môi tranh hôn bại.

Tinh Thiên Ương: Gặp giờ Dần, bên Đông quân mũ săn lưới. Người chài tay cầm cá đến. Sau dụng, người gái nhặt được tiền. Trong 60 ngày có mừng ngầm. Bà góa đem tờ khế ruộng đất đến. 100 ngày sét đánh nhà thì bại.

Tinh Thiên Bồng: Gặp giờ Mão, mây vàng khởi. Người đàn bà học nấu nướng mang lửa tới. 7 người âm Dốc mời mọc. Nửa tháng, người âm Trủy đưa tiền lẻ. 60 ngày người nữ cho them vật báu. 100 ngày trong hầm thấy nhiều mừng.

Tinh Thiên Nhuế, Thiên Xung: Gặp giờ Mão, người đàn bà mặc hồng đưa tài vật. Người quý cưỡi ngựa đến. Chó tranh sủa. Trâu nước kêu lên tiếng. Sau tạo táng 60 ngày, được them nhà của người tuyệt tự bên Đông. Ba năm, vợ thai ra máu chết.

Tinh Thiên Phụ: Gặp giờ Mão, người gái cầm lọng. Lại có thày đồng thổi tù và. Sau dụng 60 ngày thêm nhân khẩu, tất có khí sinh. Nhà trên, con gái buông trong trà thông. Đều được tiền, thêm ruộng khế. Có vật trân bảo.

Tinh Thiên Cầm: Gặp giờ Mão, gió Đông thổi. Đàn hạc kêu 4 mặt chia dạ vui lo. Đàn bà mang thai. Từ đó qua nửa năm, cho mèo trắng lại. Nhặt được vật báu trong vườn lại. Trăm việc mà được, đều có lý.

Tinh Thiên Tâm: Gặp giờ Mão, giờ tác dụng, đàn bà kiễng chân đánh nhau. Chó sủa, trống khua bên kiệu Đông. 7 tháng phát tài vượng. 3 năm có trâu lại, đại vượng. Nhân trong quân được vật. Được người đến mời.

Tinh Thiên Trụ: Gặp giờ Mão, có bà bệnh dịch cầm mũi nhọn đến. Phòng có kẻ lừa dối. Tăng đạo cầm ổ. Người gái chửi. 60 ngày có lửa bốc. Gà mẹ gáy ban ngày. Cho lên trên nhà. Hết 1 năm bị bệnh dịch chết tuyệt khí.

Tinh Thiên Nhậm: Gặp giờ Mão chim khách kêu mừng. ông già chống gậy đến đường này. Trong 7 ngày được thêm đồ cổ. Trong 60 ngày, 6 giống nuôi đồ quý giá. Con gái được tiền. Thực được phát, gia quan tiến lộc, 100 ngày tốt lành.

Tinh Thiên Ương: Gặp giờ Mão, ngựa lại mau gấp lung bắt giặc, vừa gặp 5 người lưới cá bên trước qua. Người gái đi đường được tiền. 60 ngày được thêm vật của bà góa. 100 ngày lửa sấm trên mái nhà.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 18

Sao Thiên Bồng Thiên Nhuế gặp giờ Thìn: Cây Đông Bắc đổ, quật người mê. Trống đánh. Người gái mặc hồng đến. Chim khách đen bay quanh cây lớn. Giặc cướp của. 60 ngày có người gió đên. Sinh quý tử, đại phát tài.

Sao Thiên Xung gặp giờ Thìn: Cá chép lên cây. Hổ trắng ra núi. Thày tu thành bầy. Sau dụng, nhặt được vật bằng vàng bạc. Trong nhà phát lớn, trăm việc thành. Trong 1 năm, chủ nhân bị gieo tai ương. 1 nam 1 nữ trở về.

Sao Thiên Phụ gặp giờ Thìn: Dê chó gặp nhau. Người bán dầu gặp người bán quả và gạo. Trẻ đồng áo trắng ở trong nhà ra, khóc. Bà chửa đến hỏi kỳ sinh đẻ. Sau đại phát tài, thóc lúa vượng, một năm sinh hai cháu quý.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Thìn: Thày đồng ganh nhau. Phương Đông cò, chim khách kêu. Đó làm ứng, chim sẻ chim hạc, tất định có mừng đến nhà. Sau tạo táng 7, 9 ngày, tự có đạo sĩ, nhà sư lại và sản vật của người tuyệt tự đến.

Sao Thiên Tâm gặp giờ Thìn: Phương Kiền nổi mây. Người áo xanh đến, tay xách cá. Người gái cùng đi với tăng đạo. Trong 60 ngày khí bốc như mây. 3 ngày sinh quý tử, thi đỗ liên khoa. Thậm hữu ý.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Thìn: Người gánh cấy. Người trai cầm trống, dẫn đàn bà cầm cái bừa. Sau 60 ngày mèo đen con trắng, gà sinh đôi. Người phương Bắc đem cho tiền tài của bà gái góa. Người mặt đỏ nói về vật âm Vũ.

Sao Thiên Nhậm gặp giờ Thìn: Người già tới. Anh em hội họp chốc lát. Chim kêu, chó sủa. Người áo vàng qua. Người trai được vật cổ. Người mở điếm. Trẻ đồng trong nhà vỗ tay. Trong 60 ngày có kiện cáo về vật nuôi trong nhà.

Sao Thiên Ương gặp giờ Thìn: mưa phương Kiền lại. Gà bay lên cây cao. Người gái mặc hồng xách giỏ thiếc. Sau dụng 7 ngày có khí quái. Trong 60 ngày thấy máu. Lửa bốc lan đến nơi. thành hữu khởi.

Sao Thiên Bồng gặp giờ Tỵ: Thấy người già. Người gái mang rượu yến tiệc. Quên sức mạnh, lưỡi trắng, đều nhân nước vọt lên. Trong 100 ngày được lửa, có vàng đỏ. Trong 1 năm chức võ thêm quan lộc. Gặp heo tất nhiên thấy hình rắn.

Sao Thiên Nhuế gặp giờ Tỵ: Đàn bà chửa đến. Gái kỹ, thày đồng làm nhạc, mặc áo vàng. Chim, ngỗng thành quân từ Bắc qua lại. trong 60 ngày thấy con mèo của bà góa cắn gà. Giống quái trầu vào phòng tranh.

Sao Thiên Xung gặp giờ Tỵ: Trâu đánh nhau. Dê chạy loạn. Người gái cùng đi. Phương Nam chim ồn ào, người hướng khôn đi. Trong 60 ngày, rắn căn gà, trâu vào nhà. Con gái nhỡ đem về tờ khế. Ruộng tiền phát. Sinh con hoa.

Sao Thiên Phụ gặp giờ Tỵ: Người đánh nhau, gái ôm vải. Có gió thổi. Trẻ nhỏ kêu than tranh nhà trống. Trong 60 ngày được thêm của tiền phương chấn. Quỷ thần vận lương. Đại phát đạt. Đồ vật tre gỗ đều đem bầy hết.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Tỵ: Ngỗng kêu đến. Thấy đồng cốt, thầy thuật số đánh chửi nhau. Người quý cưỡi ngựa hoang mang qua. Trong 70 ngày vợ đánh ma, hợp sinh con quý, thành gia nghiệp. Trong 3 năm, ruộng tằm phát, lúa thóc nhiều.

Sao Thiên Tâm gặp giờ Tỵ: Người gái mặc áo xanh bế trẻ. Rùa leo lên cây. người áo tía cưỡi ngựa. Nửa tháng sau, 4 phương đem giống nuôi tiền của đến. Người kiễng chân làm môi giới cho người âm Thương. Ba năm sau bà góa sinh, thành không tang.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Tỵ: Trâu đen qua. Chuông kêu. Lợn chạy vào núi rừng. 20 ngày được thêm vật của người âm Thương. 60 ngày con gái rơi xuống ao nước. Sau vòng 1 năm, mèo bắt chuột trắng đến. Đại phát phú quý. hà đãi thời.

Sao Thiên Nhậm gặp giờ Tỵ: Hai cho tranh nhau. Người quê ôm của đến. Lúa đi, người lại dịch đợi ô che. Đồng tử vỗ tay. 60 ngày được tiền ở Công môn. Người phương Nam đem cho cá chép. Đến đường lạ. Hiển đạt, quý tử bầy.

Sao Thiên Ương gặp giờ Tỵ: Bà mặc hồng. Việc hôn nhân, có cãi cọ. Ngựa hoa qua. Sau 60 ngày nhặt được tiền của người săn. Có đổ máu. Người âm Trủy đem văn thư tín đến. Một tiếng sung. Mãn thiên hồng.

Sao Thiên Bồng gặp giờ Ngọ: Người đàn bà mặc áo xanh. Có người cầm dao lên núi Nam. Đồng tử phương Đông Bắc có tiếng than. 6 tuần chó nói tiếng người làm quái. Người bệnh hủi mặt đỏ. Chủ nhà chết. Trong 3 năm có tiền của ở hầm cổ.

Sao Thiên Nhuế gặp giờ Ngọ: Người sứt môi, thân khoác áo trắng dắt bò. Đàn bà chửa đi qua. Sau 60 ngày mèo cắn người. Nhân bán nhà mà được hoạch tài. Được thêm ruộng đất. sau hộp gương của Họ Khương có nhiều ngọc bích.

Sao Thiên Xung, Thiên Phụ gặp giờ Ngọ: Thày tăng cầm ô. Người gái mặc hồng lại. Trong nhà đá nảy lửa phát ra. Sau 60 ngày, người quý đem vàng bạc từ phương Tây đến cho. Trong vòng 1 năm bà góa đem vật lại.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Ngọ: Người gái áo trắng. Cho ngậm hoa. Gái kỹ đầu gà núi. Gió mưa từ từ theo phương Đông lại. 6 tuần chó đến sủa. Tiền của ngoài Đông Bắc. trong 1 năm gà sinh trứng trắng. Ruộng lúa vượng phát.
Sao Thiên Tâm gặp giờ ngọ: Mưa sập tới. Rắn qua đường bò đi. Người gái quần hồng đem trầu rượu tới. Chén rượu của võ sĩ. 60 ngày, trong nồi có tiếng kêu. Người kiễng chân đem sinh khí tới. 5 năm được thêm vàng, điền trang tiền.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Ngọ: Quạ bay kêu từ Tây lại. Cưỡi ngựa tới. Có mây. 5 ngày bà chửa mắc bệnh chết, khóc. 60 ngày trong băng tìm thần vật, đổ cổ, thật là báu. Trẻ nhỏ bị thương trong 1 tuần.

Sao Thiên Nhậm gặp giờ Ngọ: Sư ni lại, phương Tây bắc, chim vàng. Quân tử đi. 40 ngày được thêm của báu của người quý. Người áo tía vào nhà. Sinh quý tử. Bà chửa, đồng tử lại. Người mượn, ngựa hoàn. Da hổ điểm vàng xanh.

Sao Thiên Ương gặp giờ Ngọ: Hôn nhân chọn phương Nam. Người chài cá cầm cung huyền. Sau dụng 60 ngày, trong việc làm bị gỗ làm thương người. Lửa bốc cháy, tự thắt cổ, rơi xuống nước. Trông thì là công tử cưỡi ngựa, lại gần là nữ lang.

Sao Thiên Bồng gặp giờ Mùi: Đồng tử qua, dắt trâu con. Đó là đôi cò bay, ngỗng, chim phương Bắc lại. Người gái mặc hồng trở lại xanh. Trong 60 ngày, giặc cướp phá mặt dẫn đến quan tai.

Sao Thiên Nhuế gặp giờ Mùi: Người săn bắt đáp lại đạo nhân áo trắng cầm bình trà, 7 ngày, quạ đen bay quanh nhà kêu. Người mặt đỏ râu dài ba răng ứng. Một năm tranh giành, động ôn dịch. Lửa cháy nhà, Bại, Còn thương người.

Sao Thiên Xung gặp giờ Mùi: Trống phương Kiền nổi dậy. Trẻ nhỏ mặc hiếu tang. Ngựa thành hang. Người tây Bắc kêu hoặc tranh đấu. Sau dụng 60 ngày phòng người ác cầm gậy gỗ đánh bà góa. Dê trắng vào nhà. Sáu giống nuôi vượng.

Sao Thiên Phụ gặp giờ Mùi: Đàn chó sửa người ăn mày mặc áo rách. Các tăng đạo cùng bàn bạc. Phương Tây Bắc có người tranh nhà tranh bếp. Trong 100 ngày thêm tờ khế văn thư. Người âm Thương đem vàng bạc đến.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Mùi: Người già lại. Người kiễng chân gánh hoa quả tới. Người áo xanh vàng mang rượu thịt tới. Sau tạo táng 60 ngày, người âm Vũ đem gà, súc vật, đồ sắt, nguyên là của người hang giết thịt.

Sao Thiên Tâm gặp giờ Mùi: Sương mưa lại. Con trai mặc áo vàng. Người gái mặc áo màu mang rượu đến để mời bậc tôn trưởng. Trong 60 ngày nồi có tiếng kêu. Người kiễng chân cưỡi ngựa hoặc ngồi xe. Vàng Đồng, vật nhọn đi qua ruộng.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Mùi: Đàn bà xấu xí và tăng đạo cùng đi. Cầu yên chăng. Đông Bắc người ngựa mang cờ, ô. Sau dụng 100 ngày, có giống quái làm con dâu mới sợ. Hồ ly quẩn quanh bên mình. Sinh thiết na hỏa khẩu đầu diện.

Sao Thiên Nhậm gặp giờ Mùi: Hạc trắng bay. Chim choc bay từ Tây Nam đến Bắc lại. Gió mưa, tiếng trống rầm rĩ. Sau dụng 7 ngày có cô gái họ Trương đem đồ trắng đến. 6, 9 nàh sinh khí trắng lạ, ứng được giống súc. Đại vượng tiền tài.
Sao Thiên Ương gặp giờ Mùi: Bà chửa đi qua. Phương Tây tiếng trống lại mừng. Sauk hi tống táng 60 ngày chủ nhà rơi xuống nước. Sau một năm gặp ôn dịch, thân thể bại. Ngựa béo hoàn về mẹ được nhiều cỏ.

Sao Thiên Bồng gặp giờ Thân: Người lấy nước. Ô nón che mưa tất có tới. Phương Tây trẻ con đập nước qua. Đánh trống, cười to tiếng đi. 60 ngày trong ổ gà, rắn làm thương người. Vợ đâm tự thắt cổ. Việc kiện ác.

Sao Thiên Nhuế gặp giờ Thân: Người đẻ phương Đông lại. Đạo nhân dù xanh, thân cao lớn. Trên đánh thương người. Chó cắn độc. Trong 100 ngày, người âm vũ đem cho vật bầy. Trong 1 năm trâu nước vào nhà. Chim bằng, người nhà nhiễm bệnh.

Sao Thiên Xung gặp giờ Thân: Giờ tác dụng, phương Nam, người cưỡi ngựa áo trắng. Người lại tốt cầm dao giết nhau. 120 ngày người gái làm mối. Điền sản của người tuyệt tự lại tiến nạp. bà góa bị giặc cướp không dung.

Sao Thiên Phụ gặp giờ Thân: Người sưng chân mang rượu đến để mời chưa thuốc cho vợ. Nho thích đạo nhân mặc áo mầu. Tiếng trống phương Tây Bắc. Con gái tiến phát. Nửa năm rắn tài trong giếng bò ra, bệnh. Người trắng biếu trâu để đáp.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Thân: Chim bay kêu. Thầy đồng cầm thẻ. Trong 100 ngày người gái tự nhặt ngọc châu. Chim thúy về. Trong 1 năm vợ mới vui mừng có ngôi. Sinh quý tử. Vượng ruộng tằm. Sợ giặc nhà cướp đi mất.

Sao Thiên Tâm gặp giờ Thân: Tăng đạo lại. Chuông trống 4 mặt nổi dậy. Trăm chim kêu. Người gái quần hông lại biếu rượu. Bà góa ngồi trước thềm vào hầm báu. Người già chống gậy. Ngựa ngậm vòng. Quân nhân ở nhà vì bệnh. Tốt.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Thân: giờ tác dụng, chim diều hâu bắt chim rơi xuống đất. Người gái áo xanh xách giỏ tới. Sau dụng 100 ngày. Lửa cháy, nhà bại, người chết. Vật áo trắng khắc nhà thể sinh thực tình chơi vơi.

Sao Thiên Nhậm gặp giờ Thân: Gió mưa lại. Người ba răng có râu đánh trống đến. Tăng đạo mặc áo vàng theo với thời tiết. 7 ngày quên đặt. Chó vàng tới. Người gái nấu nước, nước sôi tràn ra. Thuyền tán. Trăm chim ngậm lúa bầy.

Sao Thiên Ương gặp giờ Thân: giờ tác dụng, người đàn bà chửa, khóc kêu to. 4 phương chuông trống nổi dậy. Tăng đạo cầm dù, song rần. Lửa tới giờ Kim có chiến tranh. Trong 60 ngày có thêm vàng.

Sao Thiên Bồng gặp giờ Dậu: Ngựa đỏ qua. Phương Tây có xe pháo tụ tập. Quạ kêu. Sau dụng 100 ngày sinh quý tử. Tăng đạo làm môi giới đất âm Thương. 3 năm sau, gà sinh đôi, con mèo nuôi thỏ trắng. Thi đậu.

Sao Thiên Nhuế gặp giờ Dậu: Phương Tây ngựa vàng, xe kiệu tàn lọng. Vợ tất góa. người có râu đánh nhau. Cho sủa người. Người âm vũ cho sản nghiệp. Chủ thành thục nhã nhặn. Trong 1 năm trâu tất vào trong nhà. Chim bằng đen lại. Bụng sinh bệnh.
Sao Thiên Xung, Thiên Phụ gặp giờ Dậu: Người phương xa đem văn thư đến. Phương Đông hồ ly cắn kêu thành tiếng. Người đàn bà cắp lửa lại. Sauk hi thổi lửa dung, 1 năm sinh quý tử. Nhặt được của hoạch tài. Kỳ đại phát.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Dậu: Phương Tây bốc lửa. Người nhà đánh nhau, kêu lẽ phải. Tiếng trống rầm rĩ. Chim kinh sợ bay báo. Sau 1 năm có quý tử, tất có hầm tiền đưa lên môn đình. Chim khách báo hỷ đậu trước mái hiên báo mưa móc.

Sao Thiên Tâm gặp giờ Dậu: tăng ni lại. Lửa bốc từ phương Khôn tất lan ra. Phương Bắc chiêng trống khua ồn kêu gấp quan viên. Con lạc đà trở tiên quý. Nghệ nhân đưa tin xa đến. 7 ngày người âm thương lấy thoa của con.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Dậu: giờ tác dụng, chim cắt trắng đánh chim bồ câu. Người áo xanh lấy vật bằng sắt. Vì lửa mất nhà. Gái một mình. 7 ngày có người âm thương đến thêm. Vợ chồng hài hòa. Đánh rơi ở đường ra.

Sao Thiên Nhậm gặp giờ Dậu: Cho lên cửa. Đồng tử vỗ tay cười. Trong viện hoàng cô, cô gái nhỏ vui mừng hão. Trong 60 ngày sinh con quý. Gà trắng từ đất dậy. Vợ nghiêng bầu rượu. Đường xa tất gặp bia đá.

Sao Thiên Ương gặp giờ Dậu: Lửa vào kim. Phương Tây có người tranh nhau nhà. Quạ kêu rầm rĩ. Bạo qua bia. Người gái áo trắng có chửa. Sau khi đến việc 1 tuần, mẹ đứa bé gẫy chân. 100 ngày tranh được tiền.

Sao Thiên Bồng gặp giờ Tuất: Giờ tác dụng, người già chống gậy vào bên cạnh. Đường Tây Bắc mưa đến. Dưới đó người ba răng có râu gánh cái la đến. Cho trắng chạy qua. Sau 1 tuần nhặt được quân khí. Có hoạch tài.

Sao Thiên Nhuế gặp giờ Tuất: Bò vàng lại. Bà chửa cầm tán từ phương Đông trở lại. Chó dữ từ trong nhà ra làm thương người. Trong 1 năm người âm Cung đem tiền đất đến. 100 chim bay qua. Xe vào tới. Trong phân nhặt được thoa vàng của người con gái.

Sao Thiên Xung, Thiên Phụ gặp giờ Tuất: Phương Tây lại đủ 3-5 người, tay cầm lửa tìm vật mất. Thầy đồng, người ba răng có râu gặp gà lên cây gáy. Xa có tin. Hết 1 năm trẻ nhỏ bị trâu đánh chết.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Tuất: Đông bắc ứng tiếng chuông, nạo bại khua loảng xoảng. Đồng tử áo xanh xách giỏ qua. Trong 1 tuần rùa trắng tới nhà. Được đất cát của mẹ góa phát. Có người dẫn dắt phúc đến cửa.

Sao Thiên Tâm gặp giờ Tuất: giờ tác dụng phương Nam kêu to, giặc kinh ngại. Trẻ nhỏ cưỡi trâu đến. Qua đầy 100 ngày trong nhà sinh quý tử. gà vàng gáy chia ngọc. Chó sủa. Sau 2 năm xin được cất nhắc.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Tuất: Người con gái ôm vải. Phương Bắc cây đổ vào người. Phương Tây có tiếng trống của việc chôn táng. Trong 60 ngày rắn vào nhà cắn người, người dâu bị độc trắng. Năm ôn dịch, chết chưa hết.
Sao Thiên Nhậm gặp giờ Tuất: cậu bé lại, trong nhà tranh kiện. Khi thua, cho kêu phát hung. Đám tang qua. Chim bay sắc vàng. Ni cô lại. Tiên quý nhân vượng. 100 ngày người áo tía lại, có tiền.

Sao Thiên Bồng gặp giờ Hợi: Đồng tử tụ tập nhiều nhóm. Người gái mặc hiếu tang. Sau nhận đuổi giặc được hoạch tài. Trong 3 năm, đạo nhân gặp thầy thuật số. Cầu tài tích thành nghĩa nhà. Lợn bị chim bằng ngậm thịt qua.

Sao Thiên Nhuế gặp giờ Hợi: Chim chạy kinh. Thu Đông cát thời Khách Chủ thuận hòa. Xuân Hạ không dung, bởi vì khắc thoát. Phương Khôn lửa bốc. hai người hoàn trả mèo. Cho làm thương người. Bà chửa động. Người con gái tự thắt cổ, một tự buồn.

Sao Thiên Xung, Thiên Phụ gặp giờ Hợi: Người kiễng chân áo xanh đến ngay. Nhà người Đông Bắc lửa cháy. Trong 100 ngày mèo bắt chuột trắng. Người âm thương đem cho tờ khế đất cát. Thê tài phát lớn phò chủ.

Sao Thiên Cầm gặp giờ Hợi: Phát gió Tây. Đất Kiền có tiếng khóc của đàn bà. Cây đổ sập nhà. Tiếng kêu to. 60 ngày được thêm tiền của người thợ sắt. Người âm Thương nói chuyện sản vật của tăng nhân. Chim khách báo hỷ, báo tin đến nhà.

Sao Thiên Tâm gặp giờ Hợi: gà gáy đêm. Lại chủ vô cớ chó sủa cuồng. Người già đầu đội mũ da. Còn tay cầm đồ bằng sắt tất nhiên quý. 7 ngày người không quen đến ngủ nhờ, bỏ quên tiền lại. Trời cho đó.

Sao Thiên Trụ gặp giờ Hợi: Tiếng khánh phương Tây. Dưới núi có người cầm lửa đốt, kêu hò rập trời. Sau tạo táng cứu lửa được tiền. Đại phát vinh. 100 ngày sợ có gà làm quái. Người chết. Sông song với mộ xưa.

Sao Thiên Nhậm gặp giờ Hợi: Tiêu như qua, dưới hối đài cười ha hả. Phương Tây trống, thanh la rầm rĩ. Đồ sắt, tay tung lên trời làm thương nhiều. Giữa ngày, lo phúc đều đến. Một người tớ trong nhà ngã xuống nước từ dưới cầu.

Sao Thiên Ương gặp giờ Hợi: Người nữ lại tay cầm lửa ra ngoài đường lớn. Trong 100 ngày có người hủi đến với mệnh chung đâm xuống giếng chết. Phương Bắc cây đổ làm thương người và nhà.

Lấy sao làm Khách, lấy cung làm Chủ mà đoán.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 19

Nơi chuôi đẩu chỉ
Thiên cương chỉ Tị, cửa đất Trời, (1)
Hành sư, xuất trận khá bồi hồi. (2)
Chỉ Ngọ đàn cầm trong trướng gấm, (3)
Chỉ MÙi, tiểu thông, cũng khá rồi. (4)
Chỉ Thân, tranh ép nên kỵ. (5)
Chỉ Dậu, ngựa người sợ toát hôi. (6)
Chỉ Tuất, lệch sai thường trái lệnh. (7)
Chỉ Hợi, nhỏ hẹp chẳng dụng thời. (8)
Chỉ Tý, nửa đường hồn phách tán. (9)
Chỉ Sửu, đường ngừng đợi sáng soi. (10)
Chỉ Dần, có hỷ, chiến là thắng. (11)
Chỉ Mão, bế tắc phải im hơi. (12)
Chỉ Thìn (câu này bị mất)
Tay mở, binh cơ tử tê bài.
1. Lấy nguyệt tướng bầy trên giờ tìm Thiên cương. Đến Tị là trời Đất mới mở.
2. Dùng binh đại thắng, mở đất ngàn dặm.
3. Chỉ ngọ là trời đất dọc ngang, không nên xuất quân. Ngồi trong trướng gấm mà gảy đàn thảnh thơi.
4. Trời đất biểu thong, xuất quân cũng khá cát.
5. Lúc trời đất tranh ép, dụng binh nên kỵ.
6. Lúc trời đất bế tắc, xe nghiêng ngựa chết, chiến rất hung.
7. Xuất quân, chủ về sĩ tốt lệch lạc bị thương, hòa.
8. Dùng binh chủ tổn thương kinh hoàng.
9. Đi đến nửa đường, hồn phách không yên.
10. Là biểu thông, ra quân 30 dặm (đợi lại triều lãnh ý chỉ rồi đi), tất đại thắng.
11. Đi là có hỷ, chiến tất đại thắng.
12. là trời đất bế tắc, chỉ có yên doanh hạ trại, không thể vọng động.

Phép xem đường mê
Ba lối mê tâm, Mạnh Trọng Thiên cương đã trỏ.
Hai đường cảm ứng, nhật thần Tả hữu làm khuôn.
Gặp ngã ba đường, chưa biết đi đường nào thì cát, lấy giờ chiêm tìm Thiên cương. Thấy Thiên cương trên mạnh thì đường bên Trái thông. Trên Quý thì đường bên phải thông. Trên trọng thì đường ở giữa thông. Theo đó xuất quân thì đại thắng, lòng mong được toại.
Nếu gặp 2 ngã đường thì xem Can ngày. Thấy can ngày cát thì lối bên trái thông, Chi ngày cát thì lối bên phải thông.
Như tháng 7 giờ Thân xem. Lấy Thiên cương Tị gia trên Thân. Số chuyển thuận. Thấy Thiên cương trên Mùi địa bàn. Mùi là Quý, lối bên phải thong. Ngoài ra đều như vậy.
Tí ngọ mão Dậu là 4 cung Trọng. Dần Thân Tị Hợi là 4 cung Mạnh. Thìn Tuất Sửu Mùi là 4 cung Quý.

Hỏi việc mật.
Muốn biết tin bên giặc, Thiên mục (1) hãy ngó trông,
Muốn hay tin mật gấp, Địa nhĩ (2) hãy nghiêng mong.
Chú thích: 1-Thiên mục là Đại tiểu cát, tức Sửu Mùi.
2-Địa nhĩ tức Thái xung, Tòng khôi hay Mão Dậu.

Qua sông
Trời có ba sông: Nhâm Tý Quý.
Đất có ba giếng: Mão, Dậu, Thìn.
Nguyệt tướng trên giờ tìm ba sông. Một sông trên giếng tất đắm thuyền. Lại còn có: Thái xung trên Nhật thần chủ gió mưa. Thần Hậu trên Quý, nhanh qua sông thì cát.

Cướp lương, tìm nước
Quân ta muốn cướp lương, Đại Tiểu cát tìm đường.
Cờ hiệu mong tìm nước, Tiểu cát, Thái xung lường.
Tiểu cát, Thái xung là thần suối giếng. Tìm đất phương ấy chắc có nước.

Xem sứ địch giả hay thật
Đích có sứ lại thì xem Nhật thần. Trên Nhật là Khách, trên Thần là Chủ (Thần ở đây là giờ).
Thần trên Can ngày khắc Thần trên Thần (Nhật khắc Thời) thì lời nói ấy hư dối không tin được. Nếu là Thần trên Thần khắc thần trên Nhật thì họ sợ lời ta nói.
Chân Chu Không: Thái âm trên Nhật thần:
-Trên nhật thì kẻ kia trá -Trên Thần thì ta trá.

Đột vây
Ví bị quân vây, ngại nỗi long
Thiên cương là lối thoát ngoài vòng.(1)
Ráng cung mà ấy, tìm Thân Dậu, (2)
Ví thấy Minh đường, hỏi Thái xung. (3)
Ngọc đường thì kiến Thiên khôi dưới, (4)
Địch mạnh thì tìm Bát cục trương. (5)
Nhật thần, thượng tướng, cùng sinh, cát, (6)
Cùng khắc thì sao cũng tổn thương. (7)
Chú thích:
1.Thái công nói: Quân vây ngàn dặm, Đẩu đạo tất thong. Đẩu đạo là Thiên cương. Lấy nguyệt tướng bày trên giờ tìm Thiên cương, dưới Thiên cương tất có lối thoát. Nếu phương Thiên cương không thấy đường thoát thì tìm Tam quan thời. Tam quan tức Hợi Tý Sửu.
2.Lấy Nguyệt tướng trên giờ. Thấy Hợi trên Tý Ngọ Mão Dậu là Sáng cung, nên hướng lên Thiên bàn tìm Thân Dậu, tất dưới Thân Dậu có lối ra.
3.Tý trên Tý Ngọ Mão Dậu là Minh đường, nên nhằm vào mão thiên bàn mà ra.
4.Sửu trên Tý Ngọ Mão Dậu là ngọc đường, nên hướng phương Tuất mà ra.
5.Gặp giặc hào cường, thế không đương nổi, hướng về Thiên cương có thể thoát. Đó là bát cực trương.
6.Thương không thương, nhìn âm dương. Nếu Nhật thần thượng tướng sinh nhau thì cát.
7.Nhật thần với thượng tướng khắc nhau, lại chế Nhật thần, tất có tổn thương. Người dụng binh nên biết.

Xét giặc ở đâu
Nghe giặc, chưa hay giặc chốn nào,
Trên giờ: Xuân Ất, hạ Đinh trao. (1)
Thu Tân, Đông Quý, tên Thiên mục, (2)
Giặc nấp nơi đây, phải liệu chiêu.(3)
Chú thích:
1.Ất gửi ở Thìn, Đinh gửi ở Mùi.
2.Tân gửi ở Tuất, Quý gửi ở Sửu.
3.Lấy tướng tháng bầy trên giờ, tìm Thiên mục ở phương nào? Dưới đó là nơi giặc đóng. Thiên mục là: Xuân ở Thìn, hạ ở Mùi, Thu ở Tuất, Đông ở Sửu. Xem về Xuân thì tìm Thìn. Ngoài ra đều như vậy.

Rút quân đánh địch
Thế giặc đông hơn, ta chẳng cường, (1)
Rút quân tạm lánh, lối thiên cương. (2)
Thấy trên cung mạnh, nên tìm hữu (3)
Trọng Quý, lui về hướng Tả phương. (4)
Thái xung, Tiểu cát, Tòng khôi đó, (5)
Thiên bàn bên dưới nhắm, là đường. (6)
Đại cát, Thần hậu, Từ phòng hoa cái.
Nơi tang muôn vật, qua đii không hại. (7)
Chú thích:
1.Giữa đường gặp binh của địch, họ cường, ta nhược.
2.Lấy nguyệt tướng trên giờ, xem thiên cương đến cung nào để lánh giặc cường mạnh.
3.Thìn là Thiên cương. Như thấy Thìn trên Dần, Thân Tị Hợi là thần mạnh thì lánh về bên Hữu.
4.Tý Ngọ Mão Dậu là 4 trọng. Thìn Tuất Sửu Mùi là 4 Quý. Thấy Thiên cương ở trên thì lánh về bên tả sẽ yên lành.
5.Dậu là Tòng khôi, Mùi là Tiểu cát, mão là Thái xung. Ba thần này là Thiên tam môn. Lại được Trừ Định Nguy Khai thì đó là được Thiên môn Địa hộ che trở.
6.Lấy nguyệt tướng trên giờ, tìm Thiên bàn Mão Dậu Mùi bay tới đâu, ở đấy có thể lánh nạn. Gặp phương vượng không thể đi, như mùa Xuân gặp phương Đông, không nên đi. Ngoài ra phỏng thế.
7.Đại cát là Tử phòng, Thần hậu là Hoa cái. Khi có nạn gấp, tìm hai phương ấy mà lánh, người người đều không thấy.

Bầy trên tay
1.Khảm 5.Ly 6.Kiền
2.Khôn 7.Đoài
3.Chấn 8.Cấn
4.Tốn 9.Ly
Mỏ hồng Chu tước hai trượng trường,
Mắt tựa đồng hun, lửa bốc quang.
Ngồi nhàn vô sự, thương thân mệnh,
Ngàn dặm bay về hội quá giang.
Theo từ cung Chấn khởi Giáp Tý,
Tốn cung Giáp Tuất, thuận hành trang.
Cung giữa Giáp Thân, Kiền Giáp Ngọ,
Giáp Thìn, Giáp Dần, Đoài Cấn mang.
Khi đến cung trung động giữ Hỏa,
Đến Kiền nơi ấy chớ an sang.
Đến Đoài, xem thấy đừng moi giếng,
Đến Cấn thì đừng tăng đạo đường (đường đến chùa miếu)
Đến Ly, cửa lớn đừng nên phạm,
Đến Khảm sông ngòi chớ có sang.
Đến Khôn, giá thú chết gia trưởng,
Chấn mà làm bếp, vợ thân vong,
Tốn cung nơi ấy quản đồng núi,
Mười người phạm phải, chín người ương.
Như Giáp Tý khởi số từ cung Chấn, Ất Sửu đến Tốn, kỵ núi Đông. Ngày Bính Dần tới cung giữa, kỵ rời nhà. Ngày Đinh Mão đến Kiền kỵ an sang (đặt giường). Ngày Mậu Thìn đến Đoài, kỵ đào giếng. Ngoài ra lấy đấy mà suy.

Chín số Tiên Quỷ cốc tử
Hà đồ: Giáp Kỷ Tí ngọ Chín (9)
Ất Canh Sửu Mùi tám (8) đương đầu.
Bính Tân Dần Thân, tìm số bảy (7),
Đinh Nhâm Mão Dậu, sáu (6) nên cầu.
Mậu Quý Thìn Tuất năm (5) là số,
Tị Hợi nguyên lai số bốn (4) câu.
Phép này, ngày khuôn Can Chi đều dung, giờ thì chỉ dung Chi, không dung Can. Như ngày Giáp Tý giờ Mùi. Can Chi phối nhau, hợp được 26 số. Đó là số Đại cát tiên. Ngoài ra đều như vậy. (Giáp số 9, Tý số 9, Mùi số 8, cộng lại thành 26 số).

Hợp số tiên cát thần hung
Số 13 là Nhật quang tiền (tiên trời sáng) : cát
Số 14 là Nhật thiên tiên (tiên mặt trời) : cát
Số 15 là Nguyệt quang tiên (tiên trăng tỏ) : cát
Số 16 là Kim Ngọc tiên (tiên vàng ngọc) : cát
Số 17 là Duyệt môn tiên (Tiên dứt cửa) : cát
Số 18 là Đức tiên thiên (tiên trời đức) : cát
Số 19 là Thiên hung thần (thần trời hung) : hung
Số 20 là Địa hung thần (thần đất hung) : hung
Số 21 là Tề quốc tiên (tiên nước Tề) : cát
Số 22 là Địa tải thần (thần đất trở) : cát
Số 23 là Táng môn thần (thần táng của) : hung
Số 24 là Nghịch thần tiên (tiên ngược thần) : cát
Số 25 là Đại tiên thiên (tiên rất thạo) : cát
Số 26 là Đại cát tiên (tiên rất tốt) : cát
Số 27 là Điếu khách thần (thần khách viếng) : hung
Được cát thần trên mà thăng quan, xuất hành, di cư, khởi tạo, làm nhà, đặt doanh, trăm việc đều tốt.

Ngày Thiên xá (trời tha)
Xuân: Mậu Dần. Hạ: Giáp Ngọ. Thu: Mậu Thân. Đông: Giáp Tý.
Quá ngày Khai là thần Thiên xá.
Tháng 5 ngày Giáp Ngọ, tháng 11 ngày Giáp Tý thì không xá.

4 ngày thuận
Kiên nên đi. Thành nên Ly. Dần nên đến. Mão nên về.

Thiên đức hợp
Tháng giêng: Nhâm Tháng 5 : Dần Tháng 9 : Hợi
Tháng 2 : Tị Tháng 6 : Kỷ Tháng 10 : Canh
Tháng 3 : Đinh Tháng 7 : Mậu Tháng 11 : Thân
Tháng 4 : Bính Tháng 8 : Hợi Tháng 12 : Ất.

Nguyệt Đức hợp
Tháng giêng, 5, 9: Tân Tháng 4,8,12: Ất
Tháng 2,6,10 : Kỷ Tháng 3,7,11: Đinh

Ngày Thiên thành
Tháng giêng: Mùi Tháng 5 : Mão Tháng 9 : Hợi
Tháng 2 : Dậu Tháng 6 : Tị Tháng 10 : Sửu
Tháng 3 : Hợi Tháng 7 : Mùi Tháng 11 : Mão
Tháng 4 : Sửu Tháng 8 : Dậu Tháng 12 : Tị

Ngày Thiên Quý
Xuân: ngày Giáp Ất. Hạ: ngày Bính Đinh. Thu: ngày Canh Tân. Đông: ngày Nhâm Quý.

Ngày Thiên Hỷ
Tháng giêng: Tuất Tháng 5 : Dần Tháng 9 : Ngọ
Tháng 2 : Hợi Tháng 6 : Mão Tháng 10 : Mùi
Tháng 3 : Tý Tháng 7 : Thìn Tháng 11 : Thân
Tháng 4 : Sửu Tháng 8 : Tị Tháng 12 : Dậu

Ngày Thiên Phú
Tháng giêng: Thìn Tháng 5 : Thân Tháng 9 : Tý
Tháng 2 : Tị Tháng 6 : Dậu Tháng 10 : Sửu
Tháng 3 : Ngọ Tháng 7 : Tuất Tháng 11 : Dần
Tháng 4 : Mùi Tháng 8 : Hợi Tháng 12 : Mão

Ngày Nông sa
Tháng 1-4-7-10: ngày Ngọ. Tháng 2-5-8-11: ngày Dần. Tháng 3-6-9-12: ngày Tý.

4 ngày nghịch
Giáp không đi, Dậu không ly (Giáp bất hành, Dậu bất ly)
7 chẳng đến, 8 chẳng về (Thất bất vãng, bát bất quy)

Ngày vãng vong
Tháng giêng: Dần Tháng 5 : Mão Tháng 9 : Thìn
Tháng 2 : Tị Tháng 6 : Ngọ Tháng 10 : Mùi
Tháng 3 : Thân Tháng 7 : Dậu Tháng 11 : Tuất
Tháng 4 : Hợi Tháng 8 : Tý Tháng 12 : Sửu.
Kỵ xuất hành, xuất quân, thăng quan, đến nhậm, giá thú, thêm người, cầu thuốc chữa bệnh.

Giờ Thiên phiền địa chuyển (trời bay đất lật)
Tháng giêng: 2 giờ : Tị Hợi Tháng 7: 2 giờ Dậu Hợi
Tháng 2 : Thìn Tuất Tháng 8: Thìn Tuất
Tháng 3 : Dần Thân Tháng 9: Mão Dậu
Tháng 4 : Tị Hợi Tháng 10 Thìn Ngọ
Tháng 5 : Thân Dậu Tháng 11 Dần Mùi
Tháng 6 : Tý Ngọ Tháng 12 Tị Mão

Ngày Trùng tang
Giêng, Bảy liên Canh Giáp. Hai tám Ất Tân mang. Bốn, mười Nhâm Bính đáp. Năm một Đinh Quý trang. Thìn Tuất Sửu Mùi tạp. Mậu Kỷ gọi trùng tang.

Ngày Thập ác đại bại
Năm Giáp Kỷ:
Tháng 3 ngày Mậu Tuất Tháng 10 ngày Bính Thân
Tháng 7 ngày Quý Hợi Tháng 11 ngày Đinh Hợi.
Năm Ất Canh:
Tháng 4 ngày Nhâm Thân Tháng 9 ngày Ất Tị
Năm Bính Tân:
Tháng 3 ngày Tân Tị Tháng 10 ngày Giáp Thìn
Tháng 9 ngày Canh Thìn
Năm Mậu Quý:
Tháng 6 ngày Kỷ Hợi (có lẽ ngày Kỷ Sửu mới phải)
Năm Đinh Nhâm: không kỵ.

Những ngày tốt xấu
Nguyên trên: 4 tháng mạnh, ngày: tính từ Đường phòng chuyển ngược.

Bảo thương
(Lẫm báu) Tặc đạo
(Trộm cắp) Thuận dương
(Dương thuận)
Đường phòng
(Phòng thâm) Kim khố
(kho vàng) Kim đường
(Thềm vàng)
Đường phòng cát Kim khố hung Kim đường cát
Thuận dương cát Tặc đạo hung Bảo thương cát

Nguyên Trung: 4 tháng trọng, ngày 1 tính từ Thiên đạo chuyển thuận.
Thiên thượng
(Lẫm trời) Thiên đạo
(Độn trời) Thiên môn
(Cửa trời) Thiên đường
(Thềm trời)
Thiên Hậu
(Chục trời) Thiên dương
(Đường trời) Thiên tặc
(Giặc trời) Thiên tài
(Tiền trời)
Thiên đạo hung Thiên môn cát Thiên đường cát
Thiên tài cát Thiên tặc hung Thiên dương cát
Thiên hậu hung Thiên thương cát
Nguyên Dưới: 4 tháng quý, ngày 1, tính từ Chu tước chuyển thuận:
Bạch hổ hiếp
(sườn hổ trắng) Bạch hổ túc
(chân hổ trắng) Huyền vũ
(Rùa xám) Thanh long đầu
(Rồng xanh đầu)
Bạch hổ đầu
(Đầu hổ trắng) Chu tước
(Sẻ non) Thanh long túc
(Chân rồng xanh) Thanh long hiếp
(Sườn rồng xanh)
Chu tước Nam hung Bạch hổ hiếp cát Bạch hổ đầu cát
Bạch hổ túc hung Huyền vũ hung Thanh long đầu cát
Thanh long hiếp cát Thanh long túc hung

Tướng quân nắm giữ
Nguyên trên, 4 tháng mạnh: giêng – 4 – 7 – 10 xuất hành cát hung.
Ngày Đường phòng: ra đi, thần đường không có trong nhà. Cầu tài xứng ý. Ức gặp người. Đại cát.
Ngày Kim Khố: ra đi, xe ngựa không thành đại cát. Lạc đường. Đường gặp trộm cắp. Cầu tài không được đại cát. Hung.
Ngày Kim đường: ra đi, cát lợi thong. Kiện tụng có lý. Tài vừa ý. Đại cát.
Ngày Thuận dương: Xuất hành khởi xứ thông đạt. Kiện cáo có lý. Không gặp trộm cắp. Cầu tài vừa ý. Ra cửa gặp người. Đi xa có rượu thịt. Đại cát.
Ngày tặc đạo: Xuất hành không lợi. Việc cầu không toại. Tất chủ nhân chết. Cùm kẹp tới thân. Không nên dùng.
Ngày Bảo thương: Xuất hành người trên thấy mừng. Trăm việc thông đạt. Cầu tài vừa ý. Áo gấm về làng. Dùng thì đại cát.
Nguyên trung: 4 tháng trọng: 2- 5 – 8 – 11:
Ngày Thiên Đạo: Xuất hành, cầu tài không thành. Cãi cọ đến thân. Đại hung.
Ngày Thiên môn: Xuất hành cầu gì được nấy. Muôn việc như ý. Quý nhân tiếp dẫn. Đại cát.
Ngày Thiên đường: Xuất hành cầu tài được tài. Ta gặp người. Mọi việc đều cát.
Ngày Thiên tặc: Cầu tài mất mát. Gặp quan hết lý. Mọi việc không thành. Đại hung.
Ngày Thiên Dương: Mong cầu, được tiền. Hôn nhân hòa hợp. Muôn việc xứng lòng. Đại cát.
Ngày Thiên Hậu: cát ít, hung nhiều. Có cãi cọ, đổ máu tai họa. Không nên dùng.
Ngày Thiên thương: Mong cầu, được tiền. Ra quân thấy mừng. Đại cát.
Nguyên dưới, 4 tháng quý: 3 – 6 – 9 – 12:
Ngày Chu tước: Xuất hành phần nhiều mất tiền. Gặp quan hụt lý. Đại hung.
Ngày Bạch hổ đầu: Xuất hành cầu tài toại ý. Ra khỏi xứ, đại cát.
Ngày Bạch hổ hiếp: Xuất hành cầu tài vừa lòng. Không có lần nào đi là không lợi. Đại cát
Ngày Bạch hổ túc: Xuất hành cầu tài không lợi. Không nên đi xa. Làm việc không thành. Không nên dung.
Ngày Huyền vũ: Xuất hành là có cãi cọ. Mọi việc không toại. Không nên dùng.
Ngày Thanh long đầu: Xuất hành lợi cầu tài. Giờ Mão xuất hành cát.
Ngày Thanh long hiếp: Cầu tài vừa long. Mọi việc xứng ý. Đại cát.
Ngày Thanh long túc: Cầu tài không toại. Gặp quan hụt lý. Hung.

Ngày Phục đoạn

Tý: Hư Mão: Nữ Ngọ : Dốc Dậu: Trủy
Sửu: Đẩu Thìn: Cơ Mùi: Trương Tuất: Vị
Dần: Thất Tị: Phòng Thân: Quỷ Hợi: Tuất
Kỵ xuất quân, xuất hành, thăng quan, giá thú, làm thuyền, dựng cột, bắc xà.

Trong tháng xuất hành phương cát
Tháng giêng: đủ lấy Dần, Thiếu lấy Thân
Tháng 2 : Tý Mão.
Tháng 3 Dậu Thìn.
Tháng 4 Tị Hợi.
Tháng 5 Ngọ Tý.
Tháng 6 Mùi Sửu.
Tháng 7 Dần Thân
Tháng 8 Ngọ Mão.
Tháng 9 Mão Thìn.
Tháng 10 Tý Tị
Tháng 11 Ngọ Thân
Tháng 12 Mùi Tuất
Trên đây, trong 30 ngày, rất kỵ ngày Nguyệt kỵ. Lại sợ 3 ngày sát Thiên Địa Nhân là Nhâm Tuất, Canh Thân, Tân Tị. Canh Tân Nhâm là Thất sát (7 yêu). Quý Mão là Triệt lộ Không vong (chặn đường mất không), xuất hành rất hung.




KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 20

Ngày giờ Hoàng, hắc đạo
Tháng, Ngày : Tý, Ngọ thì trên Thân khởi Thanh long. Thế là Tý Ngọ tòng Thân đó.
Tháng, ngày: Sửu, Mùi thì trên Tuất khởi Thanh long, tức gọi Sửu, Mùi Tuất thượng tam là thế.
Tháng, ngày: Dần, Thân thì trên Tý khởi Thanh long, tức gọi Dần, Thân cứ Tý vị là thế.
Tháng ngày: Mão, Dậu thì trên Dần khởi Thanh long, tức gọi Mão, Dậu khước gia Dần là thế.
Tháng, ngày Thìn Tuất thì trên Thìn khởi Thanh long, tức gọi Thìn Tuất Long vị thượng là thế.
Tháng, ngày Tị Hợi thì trên Ngọ khởi Thanh long, tức gọi Tị Hợi, Ngọ trung thành là thế.
Như tháng giêng, ngày 26 Canh Tuất, tháng Dần thì trên Tý khởi chữ Lôi (Đạo), số đến Tuất là chữ Về (hoàn), đó là ngày Hoàng đạo.
Lại ngày Tuất thì trên Thìn khởi chữ Lôi (Đạo), trên Tị gặp chữ Thắm (Viễn), Thân Dậu gặp chữ Thông Tới (Thông đạt) 2 chữ. Hợi gặp chữ vời (Giao), Dần gặp chữ Về (hoàn), Thìn Tị Thân Dậu Hợi Dần 6 giờ đều là giờ Hoàng đạo. Ngoài ra phỏng thế.
Thanh long, Minh đường đến Thiên hình,
Chu tước, Kim quỹ, Thiên đức, thân.
Bạch hổ, Ngọc đường, Thiên lao hắc,
Huyền vũ, Tư mệnh, Câu trận trân.
Thanh long, minh đường, Kim quỹ, Thiên đức, Ngọc đường, Tư mệnh là Hoàng đạo.
Thiên hình, Chu tước, Bạch hổ, Thiên lao, Huyền vũ, Câu trận là hắc đạo.
Ca rằng:
Lối thẳm bao giờ thông tới
Đường vời hỏi buổi về quê.

Định 2 ngày Hoàng, Hắc đạo
Giêng, bảy khởi Tý, Hai Tám Dần,
Ba, chín thì đi kiếm chữ Thìn.
Bốn, mười thì nên chạy đi tìm Ngọ,
Năm, Một (11) nên đi kiếm chữ Thân.
Sáu, Chạp (12) lần theo đường lối Tuất,
Hoàng thì được cát, hắc hung phần.
Lời người dịch:
Như gạp tháng Tý hay Ngọ thì trên Thân bầy Thanh long, rồi tuần tự theo bài ca: Thanh long, Minh đường, đến Thiên hình….mà chuyển tiếp xuống. Thanh long ở Thân thì Minh đường ở Dậu, Thiên hình ở Tuất….hết vòng quay lại. Ngày nào gặp Thanh long, Minh đường, kim quỹ, Thiên đức, Ngọc đường, Tư mệnh là ngày Hoàng đạo. Còn giờ thì cũng vậy.

Phương Tam Đức
Ngày Phương Dương đức Âm Đức Nhân đức
Tý Bính Ất Canh
Sửu Bính Ất Tân
Dần Bính Canh Kiền
Mão Canh Đinh Nhâm
Thìn Canh Đinh Quý
Tị Canh Nhâm Cấn
Ngọ Nhâm Tân Giáp
Mùi Nhâm Tân Ất
Thân Nhâm Giáp Tốn
Dậu Giáp Quý Bính
Tuất Giáp Quý Đinh
Hợi Giáp Bính Khôn

Phương Hỷ thần
Giáp Kỷ, Dần Mão hỷ, Ất Canh, Thìn Tuất hay. Bính Tân, Thân Dậu tốt.
Mậu Quý, Tị Hợi đây. Đinh Nhâm, Ngọ Mùi nhâm. Nơi đó hỷ thần bày.
Như ngày Giáp Kỷ thì hai phương Dần Mão có hỷ thần, Ngoài ra phỏng thế. Khi xuất hành, đánh bạc nên theo phương ấy.

Lục Giáp Thanh long
Tuần Giáp Tý thì trên Tý khởi Thanh long. Tuần Giáp Tuất thì trên Tuất khởi Thanh long. Tuần Giáp Thân thì trên Thân khởi Thanh long…
Kiền Giáp Ly Nhâm Dần Ngọ Tuất,
Cấn Bính Tân thượng có Tham lang.
Khôn Ất Khảm Quý Thân Tý Thìn,
Tốn Tân Đoài Đinh Tị Dậu Sửu.
Kiền Thân Canh thượng có Tham lang,
Kiền Bính Chấn Canh Hợi Mão Mùi,
Tốn Cấn Đinh thượng có Tham lang.


Tị
Địa hộ Ngọ
Thiên ngục Mùi
Thiên đình Thân
Thiên lao
Thìn
Thiên môn Dậu
Thiên tang
Mão
Thái âm Tuất
Dương cô
Dần
Minh đường Sửu
Bồng sinh Tý
Thanh long Hợi
Âm hư

Yên Doanh
-Sáu Giáp khởi Thanh long, đại tướng đóng đây,
-Sáu Ất là Bồng tinh, cờ trống bầy đây.
-Sáu Bính là Minh đường, thứ tướng đóng đây.
-Sáu Đinh là Thái âm, nơi ra vào ngầm, thám thính quân tình, thoát thân, trốn lẩn.
-Sáu mậu là Thiên môn (Cửa trời), lại là cửa quân (quân môn) ra vào việc cát.
-Sáu Kỷ là địa hộ (ngõ đất), phục binh ra vào việc hung, nép giấu, trốn ẩn.
-Sáu Canh là Thiên ngục, nơi tích lương thảo.
-Sáu Tân là Thiên đình (Sân trời), phán đoán, chém giết.
-Sáu Nhâm là Thiên lao, nên chứa đựng.
-Sáu Quý là Hoa cái (tán hoa), lại là Thiên tàng.
Vì muốn thoát nạn, thì vào Thái âm ra Thiên tàng mà đi.
Yên doanh lũy mà gặp mừng (hữu khánh), công kích địch không sai suyễn.
Tam nguyên kinh nói: Tướng và Binh, trong 4 mặt, thống chúng (chúng quân) yên doanh tất phải có phép. Lấy sáu Giáp làm đầu, 10 giờ một đổi.
Sách Chân trác nói:
Lấy năm tháng tuần mà căn cứ. Hoặc dựa vào năm tháng, hoặc lấy tuần 6 giáp tuần đầu mà suy bầy.
Đại tướng ở nơi Thanh long (Giáp) Thiên tàng ở Hoa cái (Quý)
Cờ trống ở bồng tinh (ất) Sĩ tốt ở Minh đường (Bính)
Phục binh ở Thái âm (Đinh) Cửa quân ở Thiên môn (Mậu)
Tiểu tướng ở Địa hộ (Kỷ) Chém phạt ở Thiên Ngục (Canh)
Phán đoán ở Thiên đình (Tân) Tù, Kích, trữ lương ở Thiên lao (Nhâm)

Kiêng âm phù
Kiền Giáp Đoài Đinh, kỵ Ất Canh
Khôn Ất Khảm Quý Thân Thìn, Kỵ Bính Tân
Ly Dần, Nhâm Tuất, kỵ Đinh Nhâm
Chấn, Cấn, Hợi Mùi, kỵ Mậu Quý
Tốn Tân Cấn Bính, kỵ Giáp Kỷ.
28 Tú và ngày tạm ám
Chẩn Dốc, đang mờ lại tạnh ngay,
Tú Cang gió lớn cát mù bay.
Đê, Phòng, Tâm, Vĩ đều to gió,
Cơ, Đẩu mưa sương, trời ẩm mây.
Ngày gặp sao Khuê, trời tạnh ráo,
Vị Lâu, mưa tối lạnh gờ tay.
Chuyển sang Mão Tất, trời trong sáng
Sang Trủy Sâm và Tỉnh gió lay.
Sang Quỷ sớm mờ, chiều tạnh ráo,
Liễu Tinh mây phủ mịt mù xây.
Trương Dực trời hồng quang tạnh khắp,
Hai mươi tám tú một vòng xoay.
Bài này 28 tú thì còn thiếu mất 6 tú là Ngưu, Nữ, hư, Nguy, Thất Bích thuộc phương Bắc.

Sao hung mỗi tháng
Trên trời sao hung chẳng tự do,
Giêng, bảy thì : Bế,. Hai Tám: Thu.
Ba, Chín là Nguy. Bốn Mười: Chấp,
Năm Mười một thấy chữ Bình câu.
Sáu, Mười hai ngại Trừ tất phải,
Nhậm chức, lên quan phải lánh xa.

Thái Dương mọc lặn, giờ khắc ngắn dài
Chín, Giêng mọc Ất, lặn phương Canh,
Hai, Tám mèo nhỏ, gà lấp nhanh.
Ba, bảy Giáp nhìn, Tân giấu mặt,
Bốn, Sáu ra Dần vào Tuất quanh.
Tháng năm mọc Cấn, về Kiền lặn,
Mười một ra Tốn, vào Khôn thành.
Còn có tháng Mười và Tháng Chạp,
Mọc Thìn và lặn ở Thân danh.

Định giờ Dần
Giêng, Chín, Canh năm bốn điểm dồn (khắc)
Tám, hai, năm giấc (canh), điểm hai bon.
Bảy, Ba sáng rõ sang Dần ló,
Bốn sáu, khi trời hiện sáng non.
Đến tháng năm trời ba trượng đất,
Chạp (12), Mười, Canh bốn điểm hai tròn.
Trọng Đông (11), canh bốn vừa sang đó,
Là khởi giừo Dần, nhớ nhớ luôn.

Quyết đoán Tám môn
Muốn cầu giá chợ đến Sinh phương,
Vây bắt nên tìm Tử lộ cường.
Muốn hỏi đi xa, Khai mở đó,
Cửa Hưu lợi buổi yết quân vương.
Cửa Thương đòi nợ đều vừa ý,
Cửa Đỗ còn khi lợi án tàng.
Kiện tụng, bắt vây, Kinh sẵn đó,
Rượu chè hiến kế Cảnh chân hương.
Yết Quý cầu quan dùng cửa Khai
Cầu tài, kiếm lợi cửa Hưu lai.
Lánh nạn, cầu quan Sinh đến đó,
Cửa Thương đòi nợ được như lời.
Tìm người kiếm bạn nên dung Cảnh,
Săn bắn lưới chài Tử đó rồi.
Bắt giặc lùng gian, kinh dùng được,
Đỗ môn chạy mất khó mong hồi.

Phép Cô Hư
Hoàng Thạch công nói: Tựa Cô đánh Hư, một gái địch mười người.
Phép Cô, 10 người dung Cô giờ (Thời Cô), 100 người dùng Cô Ngày (Nhật Cô), ngàn người dùng Cô tháng (Nguyệt Cô), vạn người dùng Cô năm (Niên Cô). Duy Cô giờ thì rất ứng nghiệm.
-Tuần Giáp Tý, Cô ở Tuất Hơi, Hư ở Thìn Tị.
-Tuần Giáp Tuất, Cô ở Thân Dậu, Hư ở Dần Mão.
-Tuần Giáp Thân, Cô ở Ngọ Mùi, Hư ở Tý Sửu.
-Tuần Giáp Ngọ, Cô ở Thìn Tị, Hư ở Tuất Hợi
-Tuần Giáp Thìn, Cô ở Dần Mão, Hư ở Thân Dậu.
Tuần Giáp Dần, Cô ở Tý Sửu, Hư ở Ngọ Mùi.
Vượng thì gấp 10, tướng thì gấp 5. Hưu khí thì nguyên số, Tù giảm bớt, tử thì giảm một nửa.

Đánh Bạc được thua
Kim Quỹ rằng: Được hay không, nhìn vào Cô Hư, gọi là cờ bạc cỏ giả. Tuần 6 Giáp, lấy giờ đúng, ngồi trên Cô thì thắng. Ngồi trên Hư thì thua. Lại xem thêm ba kỳ cửa cát, Đẩu cương. Lấy chuôi đẩu chỉ vào người khác thì thắng.

Tựa hướng về phương ngũ đế vượng khí
Tháng 1,3,9: đứng chính Nam, mặt hướng Bắc, thắng lớn.
Tháng 2,4,10: đứng chính Đông, mặt hướng Tây, thắng lớn.
Tháng 3,5,11: đứng chính Bắc, mặt hướng Nam, thắng lớn.
Tháng 4,6,12: đứng chính Tây, mặt hướng Đông, thắng lớn.

Luận về bước hiểm nguy
Kinh rằng: 9 núi, nước sông, bờ sâu thẳm là tuyệt. Qua núi mung lung là Thiên lao. Qua nơi không dấu vết người là Thiên la. Kiếm lau lách là Chúng thảo (cỏ rậm). Ao là trì. Hiểm là tật. Nơi cao thấp đâu có nước thiên tỉnh (giếng trời) là khang hạ (hố sâu). Cây cỏ um tùm, che chở là nơi là nơi bình tê (bình chắn che chở). Tình hình đất này, binh không thể chuyển rời, giặc từ phương lợi lại. Ngửa mặt nhìn Thời trời. Như gặp giờ Dương, sĩ tốt đều cởi trần, theo vai bên trái mà tiến bước, hò reo ầm ĩ, chiêng trống khua mà đánh trước. Nếu là giờ Âm thì sĩ tốt phải ngậm tăm, dừng xe, đứng ngựa, bịt trống, đứng yên mà đợi.
Nếu địch 4 mặt vây bách, thì chia quân làm 3 bộ, một bộ đóng giữ phương Nguyệt kiến, một bộ đóng giữ phương Nguyệt đức, một bộ đóng ở phương Sinh môn. Đại tướng đóng ở Đình đình thiên bàn, dẫn binh đánh tất đại thắng.
Nguyệt đức thì từ Mùi chuyển thuận. Nhật đức chính từ Hợi chuyển nghịch. Thời đức Thìn Hợi Tý Sửu phùng thần. Dậu Tuất Tị Ngọ Mùi Dần Mão. Những nơi ấy thắng.

Đình Đình Bạch Gian
Ngọc Phương rằng: Đình đình là Thiên ất quý nhân. Tựa vào đó mà kích sang phương xung.
Phép này lấy Nguyệt tướng bày trên giờ, dưới Thần hậu là đó. Ca rằng: nên từ nơi ấy kích phương xung.
Như tháng giêng, sau Vũ thủy, sau khi Thái dương qua cung Hợi, dung Đăng minh là tên Nguyệt tướng, Nguyệt tướng là Thái dương vậy. Như giờ Ngọ dùng việc thì lấy Hợi tướng bày trên Ngọ. Tý trên Mùi là Đình Đình tại Mùi, nên tựa lưng. Tựa là ngồi lên trên mà kích phương đối xung.
Còn một phép ngày Tý ở Tị, ngày Sửu ở Mùi, bầy xuôi 12 cung.
Bạch gian là kẻ gian trên trời. Hợp ở Tị Hợi, cách ở Dần Thân. Khi hợp thì nên tựa. Khi cách thì tựa Đình đình, hướng về Bạch gian.
Phép này lấy Nguyệt tướng bầy trên giờ. Ba cung Dần Ngọ Tuất mà thấy Dần Thân Tị Hợi, 4 thần mạnh, là Bạch gian có đó.
Như tháng giêng khí Vũ thủy, Thái dương qua cung Hợi. Giờ Ngọ dùng việc. Lấy Tướng Đăng minh Hợi bầy trên Ngọ. Thấy Hợi tới Ngọ, tức Bạch gian ở Ngọ.
Dần Thân Tị Hợi là 4 thần mạnh.
Lại còn một phép: Ngày Dần Ngọ Tuất, Bạch gian ở Hợi. Hợi Mão Mùi Bạch gian ở Dần. Thân Tý Thìn Bạch gian ở Tị. Tị Dậu Sửu Bạch gian ở Thân.

Phương Đình Đinh
Ngày Ph.Đình đình Ph.Bạch gian Ngày Ph.Đình đình Ph.Bạch gian
Tý Tị Tị Ngọ Hợi Hợi
Sửu Ngọ Thân Mùi Tý Dần
Dần Mùi Hợi Thân Sửu Tị
Mão Thân Dần Dậu Dần Thân
Thìn Dậu Tị Tuất Mão Hợi
Tị Tuất Thân Hợi Thìn Dần

Bài ca kỳ môn ngày
Giáp Mậu, Nhâm Tý, khởi Khảm
Đinh, Tân, Ất Mão, Khôn hưu.
Canh, Giáp, Mậu Ngọ, Chấn cầu,
Quý Đinh, Tân Dậu, Tốn mau.
Canh, Bính Tý, nhìn Kiền phương,
Kỷ Quý Mão, chạy Đoài lâu.
Nhâm, Bính Ngọ, Cấn đầu núi,
Ất, Kỷ Dậu, Ly chín chầu.
Phép này mỗi quái quản ba ngày. Như 3 ngày Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần từ cung Khảm khởi Hưu môn.
Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, 3 ngày từ cung Khôn khởi Hưu môn. Y thứ tự 3 cung, 3 ngày một đổi cục.
Trung 5 không dung. Đợi Hưu môn định xong thì theo 8 quái mà định phương vị.

Xuất hành định cục
Giáp Tý, Ất Sửu Bính Dần,
Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần
Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần.
Hưu trên Khảm, Tử Khôn, Thương Chấn, Đỗ Tốn,
Khai Kiền, Kinh Đoài, Sinh Cấn, Cảnh Ly.
Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị,
Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị,
Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị.
Hưu trên Khôn, Tử Chấn, Thương Tốn, Đỗ Kiền,
Khai Đoài, Kinh Cấn, Sinh Ly, Cảnh Khảm.
Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân,
Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân,
Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân.
Hưu trên Chấn, Tử Tốn, Thương Kiền, Đỗ Đoài,
Khai Cấn, Kinh Ly, Sinh Khảm, Cảnh khôn.
Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi,
Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi,
Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi.
Hưu trên Tốn, Tử Kiền, Thương Đoài, Đỗ Cấn,
Khai Ly, Kinh Khảm, Sinh Khôn, Cảnh Chấn.
Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần,
Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần
Hưu trên Kiền, Tử Đoài, Thương Cấn, Đỗ Ly,
Khai Khảm, Kinh Khôn, Sinh Chấn, Cảnh Tốn.
Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị,
Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tị.
Hưu trên Đoài, Tử Cấn, Thương Ly, Đỗ Khảm,
Khai Khôn, Kinh Chấn, Sinh Tốn, Cảnh Kiền.
Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Giáp Thân,
Bính Ngọ Đinh Mùi, Mậu Thân.
Hưu trên Cấn, Tử Ly, Thương Khảm, Đỗ Khôn,
Khai Chấn, Kinh Tốn, Sinh kiền, Cảnh Đoài.
Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi,
Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi.
Hưu trên Ly, Tử khảm, Thương Khôn, Đỗ Chấn,
Khai Tốn, Kinh Kiền, Sinh Đoài, Cảnh Cấn.

9 Tinh ngày – Ca quyết
Giáp Tý, Cấn cung bày Thái ất,
Nhiếp đề, Hiên viên, Chiêu dao chiều,
Thiên phù, Thanh long, Hàm trì kế,
Thái âm, Thiên ất thuận hành lưu.
Thái ất, Thanh long, Thái âm, Thiên ất cát. Thiên phù, Hiên viên trung bình. Nhiếp đề, Chiêu dao, Hàm trì hung.
Như ngày Giáp Tý, lấy Thái ất bầy trên cung Cấn, đi thuận. Giáp Tuất nầy trên Ly. Giáp Thân bầy trên Khảm. Giáp Ngọ trên Khôn. Giáp Thìn trên Chấn. Giáp Dần Thái ất trên Tốn.

Quyết xuất hành với 8 cửa ngày

Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn, Lập xuân:

Giáp Mậu Nhâm Tý: ngôi Khảm
Đinh, Tân, Ất Mão: Khôn lanh.
Mậu, Canh, Giáp Ngọ chờm Chấn,
Quý Dậu, Đinh Tân: Tốn quanh.
Canh, Bính Tý phùng Kiền vị
Kỷ, Quý Mão, chạy Tây (Đoài) vành.
Bính, Nhâm Ngọ chôn non Cấn,
Ất, Kỷ Dậu bay Ly ngành.

Vũ thủy, Kinh chập, Xuân phân, Thanh minh:

Giáp Mậu, Nhâm Tý leo Đoài,
Đinh Tân, Ất mão Cấn đòi.
Mậu Canh Giáp Ngọ Ly ngó,
Quý Dậu, Đinh, Tân:khảm bơi.
Canh, Bính Tý leo Khôn ngự.
Kỷ Quý Mão chạy Đông chấn ngồi.
Nhâm Bính Ngọ, Tốn thổi gió,
Ất, Kỷ Dậu bay Kiền chiếm.

Cốc vũ, Lập Hạ, Tiểu mãn, Mang chủng:
Giáp, Mậu, Nhâm Tý ngồi Tốn,
Đinh, Tân, Ất Mão Kiền phương.
Mậu, Canh, Giáp Ngọ Đoài ngó,
Quý Dậu, Đinh, Tân Cấn vương.
Canh, Bính Tý leo Ly vị,
Kỷ, Quý Mão chạy Bắc (Khảm) phương.
Bính Nhâm Ngọ Khôn đứng,
Ất, Kỷ Dậu về Chấn cương.

Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu:

Giáp Mậu Nhâm Tý Ly vị,
Đinh Tân Ất Mão Khảm bơi,
Mậu Canh Giáp Mã Khôn đó,
Quý Dậu Đinh Tân Chấn coi.
Canh Bính Tý nhoi lên Tốn,
Kỷ Quý Mão chạy Kiền ngồi.
Bính Nhâm Ngọ, Đoài thấy,
Ất Kỷ Dậu bay Cấn ngồi.

Sử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ:

Giáp Mậu Nhâm Tý ngôi Chấn,
Đinh Tân Ất Mão Đông Nam.
Mậu Canh Giáp Ngọ, Kiền chọn,
Quý Dậu Dinh Tân, Đoài kham.
Canh Bính Tý tìm non Cấn,
Kỷ Quý Mão chạy Ly ngàn.
Bính Nhâm Ngọ mã ngồi Khảm,
Ất Kỷ Dậu bay Khôn vàm.

Sương giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết:

Giáp Mậu Nhâm Tý Kiền vị,
Đinh Tân Ất Mão Dậu cung.
Mậu Canh Giáp Ngọ leo Cấn,
Quý Dậu, Đinh Tân Ly cùng.
Canh Bính Tý ngồi eo Khảm,
Kỷ Quý Mão ngó Khôn lồng.
Bính Ngọ Nhâm mã chui Chấn,
Ất Kỷ Dậu bay Tốn lùng.

Từ Đông chí, 4 khí đầu, Giáp Mậu Nhâm Tý ở Khảm, thì cửa hưu tại Khảm. Đinh Tân Ất Mão Khôn cung thì cửa Hưu tại Khôn. 3 ngày đổi 1 môn. 5 ngày đổi một kỳ.
Từ hạ chí, 4 khí: những ngày Giáp Tý, Ất Sửu Bính Dần, Mậu Tý Kỷ Sửu Canh Dần Nhâm Tý Quý Sửu Giáp Dần thì cửa hưu tại Ly, cho nên nói Giáp Mậu Nhâm Tý tại Ly vị, 3 ngày đổi một môn, 5 ngày đổi 1 kỳ. Ngoài ra phỏng thế.

Tám cửa và hằng ngày xuất hành
(Hương ba cửa cát mà đi, đại cát)
Giáp Kiền, bính Cấn, Mậu Tý phong,
Canh Chấn, Nhâm Khảm, khởi hưu môn.
Ất mão đông nam, Đinh Mão hỏa,
Kỷ Đoài, Tân kiền, Quý Mão Đông.
Trung Ly, Bính Đoài, Mậu Tây Bắc,
Canh Ngọ Đông nam, Nhâm Ngọ Khôn.
Ất Dậu non Đinh Khôn lão màu,
Tân Dậu đi Nam, Quý Dậu Đông.
Hưu môn phương ấy ra vào tốt,
Ba ngày một đổi thuận theo vòng.
Chín Tinh trong ngày

Giáp Tý quay đầu ngó Cấn,
Giáp Tuất bay tới Ly cung.
Viên hầu (Giáp Thân) loi ngoi đáy nước (khảm)
Giáp Ngọ trong Khôn lặng không.
Từng thấy Rồng (Giáp Thìn) lên đất Chấn,
Lại thấy Hổ (Giáp Dần) rồng sinh Phong (Tốn).
Chín tinh trên diện hiển nên công,
Gọi là Thái ất lâm chờ dụng.

Quyết đoán 9 tinh

Thái ất cầu tài mọi việc thông,
Nhiếp đề ẩu đả lộn trùng trùng.
Hiên viên đi lại nhiều kinh khủng,
Động đến Chiêu dao máu đổ hồng.
Săn bắn Thiên phù nên chọn lấy,
Thanh long dùng đến của tiền rừng,
Dựng gả Thái âm tình nghĩa nồng,
Thiên ất nhà trong thường gặp quý,
Phép này vàng ngọc đổi thì không.

Hình đồ 8 Tiết – 2 kỳ

Tốn Ly Khôn
Lập Hạ Hạ chí Lập thu
Cung 4 Cung 9 Cung 2
Chấn Đoài
Xuân phân Giữa Thu phân
Cung 3 Cung 5 Cung 7
Cấn Khảm Kiền
Lập xuân Đông chí Lập đông
Cung 8 Cung 1 Cung 6

Lệ 8 Tiết - 2 Kỳ
Thơ rằng:
Đông hè hai chí thuận nghịch phân,
Tám tiết nên quy Giáp Tý Dần.
Dương niên, dưới Thê Ngũ hổ độn,
Thì hay phương vị ba kỳ chân.
Thìn Tuất Sửu Mùi đều là sát,
Việc đem dở giói có nên chăng?
Giả như: năm Giáp Tý, sau Tiết Lập xuân. Cục Ất Sửu kỳ, Bính Dần Kỳ tại Cấn, Đinh Mão kỳ tại Ly. Lộc tại Dần, Mã tại Dần, Quý nhân tại Sửu Mùi thành cục. Thiên sát Tân Mùi. Tứ vượng Đinh Mão, Canh Ngọ Quý Dậu, Bính Tý thành cục. Kim thần Canh Ngọ Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu. Độc hỏa Ất Sửu thành cục.

Lệ khởi Thần sát
1.Thái tuế, 2.Độc hỏa, 3.Tang môn, 4.Câu trận, 5.Quan phù, 6. Tử phù, 7.Tiểu hao, 8.Đại hao, 9.Tướng quân, 10.Hoàng đế, 11.Điếu khách, 12.Bệnh phù.
Đại hao và Thất Dư cùng (Thất dư hình như là Thất sát thì phải). Giả như: Năm Giáp Tý thì Thái tuế ở Tý, Độc hỏa ở Sửu, Quan phù ở Thìn…tuần tự chuyển thuận.
Tám tiết dung Ngũ nguyên độn bay trên 9 cung. Năm Giáp Tý, Tiết Lập xuân, Quan phù bay đến phương Bắc, vị Nhâm Quý. Tiết này, nếu tạo tác ở phương Nhâm Quý thì phạm vào Quan phù. Ngoài ra phỏng thế.
Lệ khởi tháng
Giả như: năm Kỷ Mùi, tháng giêng Bính Dần, ngày Giáp Tý, giờ Ất Hợi, dùng việc:
Sau tiết Lập xuân, cung Cấn khởi Giáp Tý, đến Ly là Kỷ Mùi. Ngôi của Thái tuế đến cung Ly. Dùng Ngũ hổ độn khởi Bính Dần, là Kỳ đến Ly. Nguyệt Kiến Bính Dần đến Ly. Trên Ly khởi Canh Dần, bay thuận đến cung giữa, Kiền Đoài là Kỳ. Kỳ hổ khởi Canh Dần. (?)
Tìm giờ trong ngày, 7 giờ Phục đoạn

Tị Ngọ Mùi Thân
Ngày Thổ tinh Ngày Thái âm Ngày Thủy tinh Ngày Kim tinh
Phòng thấy lâu Dốc thấy Đẩu Trương thấy Cang Quỷ thấy Quỷ
Thìn Dậu
Ngày Mộc tinh Ngày Thái Dương
Cơ thấy Quỷ Chủy thấy Lâu
Mão Tuất
Ngày Hỏa tinh Ngày Hỏa tinh
Nữ thấy Cang Vị thấy Ngưu
Dần Sửu Tý Hợi
Ngày Thái dương Ngày Hỏa tinh Ngày Thái dương Ngày Mộc tinh
Thất thấy Đẩu Đẩu thấy Lâu Hư thấy Quỷ Bích thấy Cang

Gặp ngày Thái dương, giờ Tý Dần Dậu phạm. Ngày Thái âm giờ Ngọ phạm. Ngày Hỏa tinh giờ Sửu Mão Tuất phạm. Ngày Thủy tinh giờ Mùi phạm. Ngày Mộc tinh giờ Thìn Hợi phạm. Ngày Kim tinh giờ Thân phạm. Ngày Thổ tinh giờ Tị phạm


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 21
LUẬN CHỦ KHÁCH:

Thái công nói:Chủ và Khách động tĩnh không định, biến hóa khôn lường, cho nên Chủ và Khách là tượng không định. Hoặc lấy động trước là khách, động sau là chủ hoặc lấy động là khách, lấy tĩnh là chủ. Hoặc lấy nói trước là Khách. Hoặc lấy thiên bàn là khách, địa bàn là chủ: mọi việc đều có dùng để quyết thành bại thắng phụ, đều quy ở nơi chủ đãi khách nơi khẩn yếu vậy.
Như xuất binh động chúng, lấy ta là Khách, đất nơi đến kia là Chủ. Hoặc lấy tổ giặc và thành quách giặc xâm chiếm là Chủ. Hoặc lấy Dương là Khách, Âm là Chủ. Hoặc lấy phản khách làm chủ ,phản Chủ làm Khách.
Ví như tuyển tướng, cầu hiền, chiêu binh, sắm ngựa, tìm yết, hỏi bạn, các loại ấy thì ta là Khách, còn người là Chủ.
Như có người đến cầu ta hoặc biết ta mà ta chưa biết, như thế thì họ là Khách mà ta là Chủ.
Như ở trước trận hay không ở trước trận ấy cũng phải chia ra Chủ và Khách. Hoặc lúc này giao phong, nếu lợi khách thì trước nên diễu võ giương oai, bắn súng reo hò. Nếu thấy lợi Chủ thì nên ngả cờ im trống, cấm nói, mai phục để giữ phần thắng
Khi phát binh nên xem cờ giặc xa gần. Như lúc phát binh giao chiến hoặc lúc không động giao phong, không được lấy trước động là Khách. Đợi lâm địch, lấy chủ khách tới thời mà dùng mới được. Như lúc này, chủ khách đều không lợi:chỉ nên cố giữ. Nếu có cấp bách, hoặc bị vây khốn nên lấy kế thắng hoặc vận trú bế lục mậu hoặc cưỡi thiên mã hoặc thư phù niệm chú, các thứ ấy đều được cả. Nư việc Nước, Đô, Tỉnh, Phủ, Huyện, Bang, các việc gia trạch, quan tụng, mồ mả, cầu mưu, danh lợi, hôn nhân, người đi ngoài xa, mátmát, đuổi bắt...thì lấy Địa bàn là Chủ nhân. Thiên bàn là Khách nhân. Việc nhiều không kể xiết. Đại để Các sao thiên bàn sinh hợp địa bàn là nhất. Địa bàn sinh hợp thiên bàn là thứ. Như khách sinh chủ thì xứng ý toại lòng, nhiều mỹ mãn, nhiều tiện ích. Chủ sinh khách thì hao tán, chậm trễ. Chủ khách đều hoà thì việc làm đều toại ý. Chủ khắc khách thì nửa thực nửa hư, tự bại tự hòa, không có kết quả. Khách khắc chủ thì chiến bại kết quả không thành, cầu cát được hung. Nếu thạo dùng Kỳ Môn, thì trước chia chủ khách, sau mới xem phép. Như lúc ấy mà lợi chủ thì ta là chủ. Lúc ấy lợi khách thì ta là khách. Hoặc lấy tiến là Khách, không tiến là Chủ tất cả tại ở lòng ta, khg thể chấp nhất là khách, làchủ, tại ở ta vậy.

Tổng pháp thiên cơ – tiền biên

Khi bố diễn Kỳ môn, trước xem tượng trời, sau xét tới nhỏ nhặt, đều ở lòng ta biết dung, không thể không biết thế.
Như Thiên bàn, chín tính, Kỳ Nghi, tám môn thuộc kim, trên địa bàn cát tinh là trên mộc, thế là Khách Kim đến thương Chủ Mộc. Chiến thì lợi bên Khách. Hành binh thì cử trước, bắn sung reo hò, sĩ tốt tinh cường, trăm chiến trăm thắng. Các việc như cầu mưu, xin yết, giao dịch thì phá bại lo kinh. Bên Khách ám muội, gặp quân trộm cắp tiểu nhân, duy xem người đi xa về.
Nếu Kim Vượng, Mộc suy thì hung lại càng quá.
Như Thiên bàn Kim tinh gặp thời suy Mộ Tử Tuyệt mà trên Mộc thì Kim không có Khí, không khắc được Mộc. Nếu Mộc được thời Sinh, Vượng thì Mộc tinh là cát. Như Mộc cũng gặp thời Suy Mộ Tuyệt thì không khỏi được hung.
Như Thiên bàn Mộc tinh, trên địa bàn Hỏa tinh. Trên là Mộc có thể sinh Hỏa, chiến lợi bên Chủ. Mọi việc mưu làm đều được như ý. Như có trung Mộc, tới cung Sinh Vượng gọi là Mộc tham sinh ép Hỏa là Hỏa không sáng. Hỏa dần tự tắt. Nếu Mộc tới cung thoát khí, hoặc Mộc nhiều mà nhiều là khô mộc thì sinh Hỏa, đại lợi chủ binh.
Như Thiên bàn Thổ, trên địa bàn Kim, đó là Khách đến sinh Chủ. Nếu là thổ vượng, hoặc có trùng Thổ, tuy gọi sinh Kim, mà Thổ trùng chôn Kim, tất có binh ngầm mai phục, hoặc anh hung thất chí, hoặc trung liệt chịu khuất.
Như Thiên bàn Mộc trên địa bàn Kim là Chủ thương Khách, nên ngả cờ lau trống, cấm nói mà nghênh địch thì đại thắng. Nếu có mưu làm thì việc nhiều phá bại, có thủy không có chung. Duy có cầu danh thì hiển đạt. Việc quan được mất, xuất hành cát.
Như Thiên bàn Kim, trên địa bàn Thổ là Chủ sinh Khách, nên diễu võ dương oai, toàn tuần chính ca khúc khải hoàn, binh Khách đại thắng. Các việc mưu làm trước sau đều hao, vất vả, khó nhọc, sau mới được an.

Tác dụng diệu pháp -hậu biên

Phép diệu dụng, toàn ở 4 thiên can của năm tháng ngày giờ bay trên 9 cung, hợp thành cát hung mọi cách, thì biết được vua thánh tôi hiền, con hiền cháu thảo, cha mẹ, vợ thiếp, đày tớ, hàng xóm, mọi việc thành bại có thể suy rõ. Can năm là vua, là cha mẹ. Can tháng là tôi, là tể tướng, là chú bác. Can ngày là anh em bè bạn. Can giờ là vợ thiếp, con cái, sĩ tốt, tôi tớ.
+ Như thiên bàn can năm hợp thành cách cát, môn sinh cung, hay trên dưới hợp nhau thì chủ về nước thái dân yên, vua tôi cha mẹ, phúc thọ khang ninh.
-Ví can năm hợp thành cách hung hay bị xung khắc thì chủ về 4 bề binh lửa, trong lòng không yên, ruột thịt hình thương, tai ách lo hoảng,
+ Can tháng được thiên bàn cùng sinh, hay hợp thành cách cát thì có tôi trung, sĩ liệt, giúp nước yên dân, lên quan, phong tước muôn việc vừa long.
- Nếu hợp thành cách hung, lại bị khắc chế thì có tôi gian chuyên quyền, quan hưu chức bãi, lục thân chia lìa, nghèo đói lang thang.
+Ví can ngày được thiên bàn, 8 môn sinh hợp cách cát, thì chủ anh em hòa mục, quý hỉ tới cửa, thân yêu bạn giúp, mưu cầu như ý.
- Nếu bị khắc hay hợp thành cách hung thì chủ anh em hình thương, lục thân không hợp, thân khốn, chiêu tai nạn.
+ Ví can giờ được thiên bàn sinh hợp thành cách cát thì chủ vợ hiền, sĩ tốt tinh cường, tôi tớ đắc lực.
- Nếu gặp cách hung hay bị xung khắc thì chủ con cái bị hình thương, cha mẹ bất hòa, binh tốt tự loạn, đầy tớ dối chủ.
Khi sáu Canh trên can Năm tháng ngày giờ hay Can Năm tháng ngày giờ bay trên sáu Canh, thì xem sáu Canh trên can thuộc người ở thứ bậc nào, thì biết cát hung thuộc người ấy. Cách cát thì càng cát, cách hung thì càng hung. Anh em không hòa, gia đình nguy khốn.
Nếu xem, can năm, can tháng, can giờ phải xem riêng, không thể lấy 1 dây làm chuẩn, e rằng cát hung không nghiệm.

Lâm cơ ứng dụng
Người là linh của muôn vật, cảm thông mọi sự ứng nghiệm. Ở ta, có lúc động lúc tĩnh, lấy khí vật của người, của việc mà suy ra. Nhà binh được thua, người đời còn mất, vật thành hay bại, đến như xuất xứ (ra quân), hoặc là động chúng (lấy linh), phát ngựa lập doanh, hoặc là việc người được mất, ly hợp, hoặc khí vật (đồ dùng) mà được. Lấy ngày giờ làm đầu. Tìm ngày tra toán. Lợi vào ngày giờ nào mà giao phong được thắng, ngày giờ nào thì bại đến. Phương nào, ngày giờ nào mai phục ở nơi nào. Ngày giờ nào thành công khải hoàn.
Như muốn biết người thọ yểu cùng thông, thì lấy bản mệnh Năm tháng Ngày Giờ điền bổ thì vợ tiền con lộc có thể biết được.
Vật mà phá tổn thành bại, dài lâu hay tạm bợ, lấy ngày giờ được thấy, hoặc ngày giờ phương thấy. Cho đến vật dài ngắn, vuông tròn, hoặc năm hành thuộc phối hợp với độn giáp thì vật khí phá tổn bị ích có thể dự đoán biết.
Như trong quân doanh, cứ có một thấy một nghe hoặc gặp rời đổi, lịch ngay, ơi rụng, trống chiêng các việc, hoặc nghe lời nói thiện ác hoặc thấy cơ trống rách tổn, hoặc chim thú từ phương nào lại, cho đến một thấy một nghe việc quái lạ, đều có thể cho là triệu cát điềm hung.
Hoặc nghe tiếng người nói, bao nhiêu tiếng, bao nhiêu chữ, hoặc chiêng trống có lúc khua loạn nhiều tiếng, hoặc nhạc khí có lúc xa gần vọng lên mấy tiếng, mọi sự vật, một khi mắt trông thấy đều có thể lấy xem. Ứng ở lòng ta, một động phát ra mà biến thong. Chớ có đã xem một lần, lại xem lần thứ hai, đến nỗi cát hung không lấy đâu mà định được. Như đã lấy, mà cát hung không chuẩn, lại lấy một vật khác để xem thì cũng lại không chuẩn. Đó là tâm chưa định được cho nên cát hung không nghiệm.
Như gặp một chữ, một điểm, một vật, một tiếng, một người, một thứ….tức là giờ Tý. 2 là sửu. 3 dần. Như ngày giáp Tý là động lúc giừo Giáp Tý. Nếu số đến 13 thì tức là vòng thứ nhì và là giờ Bính tý. Nếu sô đếm mà nhiều, đều gặp giờ tý, tức là vòng thứ 3, vòng thứ 4, vòng thứ 5. Mậu Tý, Canh tý, Nhâm tý. Số mà nhiều quá 5 vòng thì là Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu, Quý Sửu. Ngàn giờ, vạn giờ đều theo lệ này.
Ví có xuât sứ, nên rõ bản mệnh của quan tỉnh quận và đầu mục lớn nhỏ, thiên tử, hợp thành các cách cát hung, hoặc có thể đi chinh phục, hoặc lợi ở mai phục, hoặc lợi ở xung phong, hoặc lợi cho tiếp ứng, nhìn gần cả mọi người ấy, người nào lợi cho việc làm này, châm trước mà làm thì ba quân lớn mạnh đều không lầm vậy.

Phú: Độn giáp thần cơ
-Lưỡng nghi chủ sử,
Tam tài đã chín.
-Bộ chú hà sai thần quỷ,
Cục thành diệu chỉ thông tri.
-Trước lấy linh văn sách gián,
Chú kinh chỉnh đốn lẽ vi.
-Như khi: Giáp trên Bính, Long hồi thủ đó,
Bính trên giáp, Điểu điệt huyệt vì.
-Hồi thủ thì vui mừng xứng ý,
Điệt huyệt thì hiến bước dễ khi.
-Thân tàn hủy vì Ất trên Tân, Long đào tẩu cách,
Tiền hư hao vì tân trên Ất, Hổ xướng cuồng ghi.
-Quý trên Đinh, Đằng xà yêu kiều, hung đó,
Đinh trên Quý, Chu tước đầu giang, nhiều nguy.
-Sinh lâm Bính Mậu, Thiên độn, dụng binh hay biết mấy,
Ất trên Kỷ đây, Địa độn, yên doanh vững quách trì.
-Canh trên Can ngày là Can phục (Phục can Cách),
Can ngày trên Canh, là Can phi (Phi can cách).
-Trực phù trên Canh, Phục cung cách,
Canh trên Trực phù, Phi cung suy.
-Đại cách khi Canh trên sáu Quý,
Hình cách, Canh trên sáu Kỷ tùy.
-Án trên đây đều là cách xấu,
Muôn công, mưu sự có ra chi.
-Ngũ bất ngộ, Can Nhật khắc Thời, tai hại đến,
Bột nghịch danh, Kỳ Bính trên giờ, họa sở quy.
-Lục nghi kích hình, trăm hung tụ đến,
Tam kỳ đắc sử, mọi thiện quy về.
-Thái Bạch nhập huỳnh, lo khi giặc tới,
Hỏa nhập Kim hương, giặc dữ đã đi.
-Địa la già tề, gặp cách ấy thì đừng có tiến,
Thiên cương tứ trương, gặp bước này hết lời….
-Trực phù cung cùng Thiên ất vi, thì nên giữ,
Như khi cấp nạn, theo trực phù phương mà đi.
-Hai chí thuận nghịch,
Diệu lý huyền vi.
-Dương phù, bên tả là tiến số,
Âm phù, bên hữu là trước ghi.
-Dương chí từ Đông chí, mặt trước là mười hai khí, Trực phù sau một là cửu thiên cung, sau hai là Cửu địa xứ, trước ba là Lục hợp thần, trước hai là Thái âm vị. Âm chí từ Hạ chí, mặt trước có mười hai khí. Trực phù trước một là Cửu thiên xứ, trước hai là Cửu địa cung, trước năm là Lục hợp thần, trước bảy Thái âm thân tùy.
-Thái âm lặn hình mà ẩn giấu,
Lục hợp ẩn thân mà mưu nghi.
-Nơi Cửu thiên nên dương vũ lực,
Dưới Cửu địa có giấu binh uy.
-Thiên Địa thực là khó lượng,
Thần cơ diệu pháp nam truy.
-Học giả muốn khi mưu việc,
Hãy đọc phú này mà suy.
Sách này gọi là Phép Tuyển trạch tam bách, được lấy ra từ Kinh “Đô Thiên hám Long”, 81 luận.
Thái ất Tử vi Cửu tổng bát quái, đó là cốt tủy của trời đất, thần cơ của Tinh đẩu. Tám quái năm biến, kịp tới vô cùng. Năm hành suy đi, ứng ra vô tận. Lấy chín tinh mà suy ra chín Tổng. Lấy 8 môn mà ra tám quái. Trên có thể bổ vào chỗ hóa không toàn của Thiên Địa. Dưới có thể giúp vào công không tới của Mậu thổ. Phù trợ nguy cát, phát mối nảy ngành. Không chỉ có 12 phận tinh đồ, mà còn phối 28 tú cách cục. Cho nên sách này làm ngay chính lại kỷ cương của Trời Đất, làm tỏ rõ ra kinh vỹ của âm dương. U thâm thuận ẩn, hiển đạt nghịch huyền. Thử xem 8 quái môn đình, phối với 9 cung hướng tốt. Suy rời sáu Giáp, khu sử sáu nghi. Vận cục Thiên ất trực phù tinh, chỉ huy Thái ất Trực nhật xứ. Cơ lấy sáu nghi, Ngẫu lấy tám tiết. Trên dưới vời giao, trong ngoài ứng biểu. ba bàn vận cục, 8 quái đều thong. Gặp được cát thì muôn sự đều nên làm. Gặp phải hung thì một phân chớ động đến. Một đó là cả bầu trời 8 quái. Hai đó là vào đất ba nguyên. Ba đó là hành quân ba kỳ. Bốn đó là Tuyển trạch tam bách. Năm đó là độn hình sách Thái bạch. Sáu đó là vào núi lay rồng. Bảy đó là chuyển núi rời biển. 9 chữ kinh nguyên. Tám đó là dựng nước yên dân, muôn năm kinh vàng sáng tỏ. Chín đó là ích cho 9 cung, vào phúc cứu nghèo, sinh tiên sản thánh, biến họa phúc như trở bàn tay. Khiến giàu nghèo tự như quen thói. Ví ba vòng đều gặp kỳ môn thì như rồng giao gặp mây mưa. Thấy Lục hợp mà được cách cục thì như Hổ lang mọc thêm vây cánh. Kỵ thấy hưu tù, phòng khi hình kích. Ví thấy môn kỳ chưa đến, tất nên mở cửa về phương cát thì mọi việc đều nên., môn môn đều cát. Chỉ câu hợp được thức cần, còn phải đem giờ luận xét. Thân Can khôn gtù, Thần chi không khắc, thần che sát lặn (Thần tàng sát một), mới hay muôn việc đều hòa, phản ngâm phục ngâm, định thấy ngàn ương lẩn quất. Kỳ gặp vượng tướng, có thể mưu cho phú quý. Môn gặp Khai Hưu, mới thấy anh hùng ứng vận. Thanh long phản thủ, mới hay nét diệu của Giáp Ất được gặp, bạch hổ xướng cuồng, thấy hung họa của Canh Tân. Nếu gặp Đằng xà yêu kiều, biết điểm chênh vênh của nhâm Quý. Nếu gặp Chu tước đầu giang, thấy được điểm Yêu quái của Bính Đinh.
Phi điểu điệt huyệt, khiến cho trăm việc đều lành, Quý nhân đăng đàn, nắm giữ chín cung đều tốt. Thông huyền cơ mà Trời Đất đều chuyển. Biết diệu dụng mà việc động đều hanh.
Nếu là quan liêu văn võ, nên cho biết chức ngôi hàng thứ. Hoặc là dân lành trò nghèo, đắp mộ phù nguy, tác phú, dựng châu phủ mà yên dân vật thái. Hưng huyện trần mà giấu dư thuế bình. Lập cung thất mà phúc gom người tựa. Làm miếu vũ mà quỷ yên thần thỏa. Cầu quán thuyền ngựa, giếng bếp, đường đi, hoặc các việc làm khác, trong tuyển trạch hiểu đủ. Hoặc có Thái ất tướng quân, đều bày cả đấy, thì 9 lương 7 sát, chẳng dám đương đầu.
Không hỏi vận khí mọi nhà, không siêu(vượt), không khai (mở) phạm phải Không vong cấm sát, mà được cục này, cần phải có Kỳ, mới có thể giữ được ngàn năm, đều vời được trăm phúc. Rất nên động thổ, phá núi, chôn tòng táng tổ. Cầu có Sao Kỳ (Kỳ tinh) đến tòa, môn hộ được khai. Có Long Sơn, tất câu thành Long phản thủ. Có Bạch hổ, tất kỵ Bạch hổ xướng cuồng. Có huyền vũ, nên xa Đằng xà yêu kiều. Có Chu tước, hãy sợ Chu tước đầu giang. Còn như tới lánh, dụng ý phối cầu.
Gặp Phi điểu huyệt, tất có chim lạ điêu lẻ, chim màu sa cánh, chim ưng xúm xít, bỏ rơi chim lạc, hạc cò về với cá lươn, tiền bạc tới kêu, loan bay xúm đậu.
Bốn Trọng đều toàn thì cát. Hai đầu phá hoại thì hung, Quý nhân đăng đàn tất có cờ phướn đưa rước, sấm chớp gió mây, ẩn biến văn thư, chuông vàng thao tía.
Gặp ngày giờ Thanh long phản thủ phải có lân chầu, cá vàng ngoài hang, rắn bay hóa trai, ngựa lồng, sấm vang, lóng lánh bạc vàng, cờ hoa nhuộm sắc, đến ứng giờ ấy, trợ thêm cát, đều có khắc ứng. Hợp với đầu núi, muôn không mất một. Động thì có cát thập toàn. Phân ra đầu mối, chia ra đề cương, bầy ra ngàn mối, thuật rõ nét sâu sa, không phải mưu mẹo mà gặp cát, mà là Trời Đất gieo lành, giúp nước yên bang, tế đãi lợi vật.

Chính, siêu, nhuận, tiếp ca
Giáp Kỷ gặp Trọng là Thượng nguyên,
Gặp Mạnh là Trung, Quý hạ miền. (1)
Năm ngày một nguyên, hai độn trải,
Mười giờ một giáp chuyển cho quen.
Âm Dương hai độn từ hồng tạo,
Tiết Khí chưa về, Phù đã đến.
Giờ chậm, tiết giao, Kỳ chưa tới,
Siêu thần, Tiếp khí thông ảo huyền. (2)
Bốn Trọng chưa về, Tiết đã đến,
Trực phù bản cục vẫn dùng liền.
Tuy nhiên tiết mới về giao khí,
Làm sao bốn trọng đến ngày bên.
Bốn Trọng đến trước, Tiết chưa đến, (3)
Dùng Siêu vào Tiết khí sau liền.
Có khí Siêu quá tuần dư đó,
Đặt thêm cục nhuận để lấp chèn.
Nhuận này phải đặt trước hai đến, (4)
Là khi ngày tích mãi mà nên.
Dương cực, Âm cùng, no đã hết,
Nhân đặt nhuận này khí mới lên.
1.Ngày Giáp Kỷ mà gặp Tý Ngọ Mão Dậu là 4 Trọng, là Thượng nguyên. Gặp 4 Mạnh: Dần Thân Tị Hợi là Trung nguyên. Gặp 4 Quý: Thìn Tuất Sửu Mùi là Hạ nguyên.
2.Ba nguyên có 15 ngày chẵn. Mỗi khí Tiết phần nhiều có trên 15 ngày. Phần dư này làm cho ngày Giáp Kỷ không đến đến vào ngày đổi khí tiết. Phần dư hãy quên đi, cứ dung ngày Giáp Kỷ trong số 15 ngày chẵn mà Tuần tự tính độn. Khi nào, trước Đông chí hay trước Hạ chí, mà số ngày Giáp Kỷ đến trước khí trên 1 tuần tức trên 10 ngày thì đặt một khí nhuận.
3.Bốn Trọng đã đến, mà khí tiết chưa đến. Trường hợp này dùng Siêu thần, nghĩa tuy biết chưa đến mà vẫn độn coi như tiết đến đúng ngày Trọng.
4.Đặt nhuận, chỉ có thể đặt nhuận khí Đại tuyết (trước Đông chí) hay nhuận khí Mang chủng (trước hạ chí) là lúc dương cực âm cùng.

9 độn ca
Kỳ môn chín độn ít ai hay,
Bí bởi tiên kinh huyền ảo thay.
1/Bính hợp Sinh môn, trên Đinh thấy,
Thiên độn, trăng soi sáng tựa ngày.
2/Ất hợp cửa Khai, trên sáu Kỷ,
Địa độn, tinh Nhật che chở hay.
3/Đinh với Hưu môn, Thái âm nữa,
Nhân độn tinh sao chiếu mặt mày.
4/Bính hợp Sinh môn, Cửu Thiên chiếu,
Thần linh (Thần độn) che chở quyền trong tay.
5/Đinh hợp Hưu môn, thêm Cửu địa,
Phục binh, Quỷ độn, lánh cho may.
6/Ất hợp Hưu môn trên nước Khảm,
Giao long (Long độn)vùng vẫy giữa mưa mây.
7/Tân với cửa Sinh trên đất Cấn,
Mãnh hổ (Hổ độn) vào lan vũ lộng oai.
8/Hổ cuồng (Tân trên Ất) mà gặp Đinh Cảnh chế,
Sinh Phong (Phong độn), thượng tướng nển dàn bầy.
9/Long đào (Ất trên Tân) cùng với Đinh và Cảnh,
Vọt qua cửa sấm, thét mây (vân độn) bay.

Thiên độn
Kỳ Bính, cửa Sinh, dưới hợp sáu Đinh, không phạm Kỳ gặp Mộ Hình là được Tinh Nguyệt che trở, trong ứng vào Tâm, ngoài chủ vào Thân. Khí ấy thăng lên trên đẩu, chất ấy chú vào Tâm, tên gọi Nguyên châu. Có thể nghe mà làm việc. Lên trời, lúc có việc, gọi thần Ngọc nữ tên là Đinh Mão thì Thần Mão ấy phù hộ.
Chú rằng: “Hỡi thần Đinh Mão Ngọc nữ, giúp ta, đỡ ta, không để cho Quỷ thương ta. Ngó ta thì mù, ác với ta phải chịu tai ương”.
(Đinh Mão Ngọc nữ, hộ ngã hựu ngã, vô linh hữu quỷ thương ngã. Thị ngã giả cổ, ác ngã giả phản thụ kỳ ương).
Chú xong đi thẳng, chớ có ngoái cổ lại.
Phương này có thể sánh với quyền vị bậc vương hầu, lợi cho triều đình. Quân vương tạ trời. Lễ cầu phúc và lợi cho chính chiến, khiến địch tự phục. Dâng thư hiến kế sách, cầu quan, tiến chức. Tu thân, ẩn tích, phạt ác trừ hung. Mua bán xuất hành, trăm việc đều cát. Hôn nhân, đến ở, đi lại phương này đại cát.

Địa độn
Kỳ Ất, cửa Khai, dưới là sáu Kỷ, được tinh Nhật che chở. Khí ấy vàng. Trong ứng với Tỳ. Ngoài ứng vào hình. Gặp việc gọi lên ứng dụng. Còn tên là Hoàng bà Kim công. Có thể làm được là ở các tiên Nam cung. Khi có việc thì hô Ngọc nữ bản cục, y phép trên mà chú, liền được giúp đỡ. Ra nơi Tử đình, che Kỷ làm Địa hộ. Được tinh Nhật che. Phương ấy có thể giấu binh, nép tướng, đóng trại yên doanh. Dựng phủ làm lâm, đắp vây xây tường, yên mộ khai mỏ, tu tạo cầu tiên. Trốn lẩn, biệt kích, xuất trận công thành, toàn quân thắng lớn. Trăm việc đều cát.

Nhân độn
Kỳ Đinh hợp cửa Hưu, dưới là vị Thái âm, là được tinh sao che trở. Khí này xanh đen. Trong ứng với Thận, ngoài ứng với tai mắt, tên gọi Hoàn Dương Đan. Làm ra thì lưu đời dài năm. Có việc ra ngoài, hô thần Ngọc nữ của bản tuần, như phép trên mà chú.
Phương ấy có thể cầu người hiền, chọn tướng mãnh, thuyết địch, hòa cừu, ba năm đều cát. Lại nên mưu kết, hôn nhân thêm người, hòa hợp giao dịch, lợi chợ gấp mười. Nếu phục binh, hiến kế sách, dâng thư, đều đại cát.

Thần độn
Kỳ Bính, cửa Sinh, dưới là vị của Cửu thiên, là được thần linh che trở.
Phương ấy nên tế thần minh, dùng thuật thánh, vạch đất đặt trù, bước giẫm cương, tạo đàn tràng, chạm khắc quỷ thần, thu quỷ mỵ, tự có uy phục. Lại lợi công hư, giấu của, âm mưu, kế mật, rất là huyền diệu. Mở đường lấp sông, tu sửa thần tượng, bồi đắp nét thần để đợi thần ứng.

Quỷ độn
Kỳ Đinh, cửa Hưu, dưới là vị của Cửu địa, là được Quỷ thần che chở.
Phương ấy có thể thám thính cơ mưu, cướp doanh trại, đặt phục công hư, nhòm mật động tĩnh, trá ngụy văn thư, đẩy cô quả, để đợi quỷ ứng.

Phong độn
Kỳ Bính, cửa Khai, dưới là cung Tốn, không phạm Mộ Bách là được linh kỳ, thuận buồm xuôi gió tiện lợi.
Lại nghi Tâm hợp cửa Sinh, cửa Hưu, dưới là sáu Ất. Phương ấy có thể lặng lẽ hớp khí gió mây, phun lên cờ phướn nhiều lần hoặc gọi Thác dị độn, khiến quân sĩ lặng lẽ nghe âm.
Lại kỳ bính, cửa Khai, trên cung Khôn, nên cầu đảo Phong bá vũ sư, cùng với lũy dịch dụng cờ phướn, để đợi gió ứng.

Vân độn
Kỳ Ất, cửa Khai, ở trên cung Khôn, không phạm Mộ Bách, là được Mây che chở.
Lại Kỳ Ất, cửa Khai, dưới là sáu Tân. Phương ấy có thể lặng lẽ hớp gió mây phun lên giáp mạo, mây xanh nhiều lần, hoặc gọi tên Thác tạ điêu. Khiến quân sĩ ngửa mặt nhìn xem. Lại nên cầu mưa hòa để lợi việc cấy cầy. Dựng doanh trại, làm quân khí để đợi gió mây ứng.

Long độn
Kỳ Ất, cửa Hưu, dưới là sáu Quý, hoặc cung Khảm là được Rồng che chở.
Phương ấy có thể tế Long thần, cầu mưa thuận, thủy chiến, diễn kế địch. Lường mặt sông, giữ việc qua sông, đánh thủy chiến, mật vận cơ mưu, rời thuyền chuyển hướng, thả thuyền, khơi sông, đóng bồn nước, tà đảo quỷ thần, đắp đê, ngăn sông, làm cầu, đào giếng để đợi phong ứng.
Sách Vũ bị chí lại viết là: cửa Hưu với Kỳ Ất tới cung sáu Giáp ở cung Khảm là Long.

Hổ độn
Kỳ Ất, cửa Sinh, trên sáu Tân là được thần Hổ che chở. Còn nói sáu Tân hợp cửa Sinh trên cung Cấn.
Phương này có thể chiêu an đảng nghịch, đặt phục, gọi chiêu, dò nơi yếu hại, tựa nơi hiểm ngăn giữ. Dựng sơn trại, đặt quan ải, phòng hiểm, làm, đào để đợi phong ứng.





KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 22

Tổng ca 8 cửa (bát môn tổng ca)
Kỳ đến cửa Khai, lợi xuất hành,
Cửa Hưu, kiện cáo, tiến thư nhanh.
Cửa Sinh, nhập trạch và hôn thú,
Thương mà đòi nợ, có công lênh.
Đỗ nơi ẩn trốn và hang lấp,
Cửa Cảnh thịt xôi chè chén nhanh.
Cửa Tử đi săn và xuất trận,
Cửa Kinh, phục chúng, cầu mưu thành.

Môn bách, cung bách
Cung chế Môn gọi là Môn Bách. Môn chế Cung gọi là Cung Bách. Cung Bách gọi là chế. Cửa cát bị Bách thì việc cát không thành. Cửa hung bị Bách thì hung tai càng nặng.

Nguyệt kiến, 9 tinh và xuất hành
Kiến: Xế, Trừ: Âm, Mãn: La hầu.
Bình, Định: ngoại tham, Chấp: Thủy.
Phá: hành mộc, Nguy: Dương, Thành: Thổ.
Thâu: Tử (mầu tía), Khai: kim, Bế: Nguyệt bột (Bột: sao chổi)
Kiến, Thanh long đấy, dụng làm đầu (tốt nhất)
Trừ ấy Minh đường hoàng đạo cầu.
Mãn thuộc Thiên hình, Bình, Tước đỏ (Chu tước)
Định là Kim quỹ (tráp vàng), cát thần chầu.
Chấp là Thiên đức, ngày Hoàng đạo,
Phá: Bạch hổ, Nguy: Ngọc đường câu.
Thành ấy Thiên lao kiên cố giữ,
Thâu là Huyền vũ, gặp tâm sầu.
Khai là Hoàng đạo Tư mệnh tới,
Bế: móc câu (Câu trận) làm chẳng cứ đâu.
Hoàng đạo xuất hành thì đại cát,
Hành quân, chiến đấu, tắc lo âu.
Phạm phải Hình mà xuất quân tất thương. Phạm lục súc, chết chóc (Mãn là Thiên hình)
Phạm phải Thiên lao thì người thương, tặc bại vong, tài bạch không lợi (Thành là Thiên lao).
Phạm phải Huyền vũ thì mất tiền của, nô tỳ trốn chạy, gặp giặc cướp, thương thai (Thâu là Huyền vũ).
Phạm Thanh long, cha mẹ an hem ganh ghét nhau, chết, vào ngục, trốn chạy gặp cướp bóc (Kiến là Thanh long).
Phạm Chu tước thì hung, chết, đổ máu, mất tiền trên đất (Bình là Chu tước).
Phạm Bạch hổ, sửa sang Minh đường (Phá là Bạch hổ, Trừ là Minh đường).
Phạm Thiên lao, sửa sang Ngọc đường (Thành là Thiên lao, Nguy là Ngọc đường), tức nơi này thì trấn áp, nơi kia thì tiêu tai, rất có công.
Ngũ Tử Tư nói:
Khi đi xa, mọi việc không nên nán trọ ở Thiên đình (Tân), Thiên ngục (Canh), Thiên lao (Nhâm). Ba thần này mà qua trên thì rất hung.
Nên cưỡi Thanh long (Giáp), trải Bồng tinh (Ất), trăm ác đều không dậy.

Kỵ ngày gặp Đại kim cương
Khuê, Lâu, Dốc, Quỷ với Ngưu, Cang
Khiển tướng ra quân chớ vội vàng.
Đất khách quay về, đường trộm cắp,
Cầu mong tài lợi khó thêm mang.
Đi thuyền có thể lo thuyền đắm,
Buôn bán giao qua chẳng dễ dàng.
Đào giếng công toi, chẳng thấy nước,
Ra quan, nhận tước chịu nhỡ nhàng.
Hôn nhân thì chủ nhiều tai hại,
Chôn cất sinh linh có tổn thương.
Muốn hỏi cát, hung tinh nẻo ấy,
Cầu ở Thiên phù Bí mật kinh.

Tổng đoán số dịch
Ngọc sách Thiên nguyên, thành chí lý,
Chia Đinh, sai Giáp, Lạc thư ký.
Âm Dương biến hóa, ngược xuôi chiều,
Tùng vết, nhóm năm trên chín vị.
*Độn có ba tài: Thiên, Địa, Nhân,
Long, Hổ, Phong, Vân với quỷ thần.
Sinh Thổ, sinh Trung, phụ thần vị,
Tám quái bay trên tám cửa trần.
*Một Trung tạo hóa lộ thiên cơ,
Thượng đế lần hư, cất bước phi.
Trung để suy lường đường tới lánh,
Giầu thần hợp sóc bói thời kỳ.
Xuất hành tạo táng, làm trăm lợi,
Kim cổ, thời nào, ai biết hết.
Một ngàn tám chục, Hiên Viên chế,
Tử Phòng mười tám cục thần kỳ.
Trí tuệ thông thần nên hiển đạt,
Bốn mươi tám cách khó suy bì.
Ta nay theo cổ biên thành sách,
Số Dịch tinh thông đến nghĩa vi.
*Người sau không biết, đọc mà hay,
Rảo bước lên thềm đường lối dày.
Xung, Phụ, Cầm, Nhậm, Tâm tới cát,
Ba Kỳ thần nữa, tốt lành thay.
*Trực phù, Trực sử hiềm xung kích,
Khai Hưu Sinh là ba cửa cát.
Đại khái, ra vào Khí tiết sao?
Kỳ môn chôn cất vào Long huyệt.
*Mở nên, chém gỗ với đi buôn,
Động dụng làm gì hãy chọn phương.
Dùng đó, đừng ngờ, đừng ngoái cổ,
Chí thành, cảm ứng phúc vô cương.
Tam Kỳ đắc sử nên dùng đó,
Sáu Giáp mà trùng hay chẳng nhỏ.
Ất về Chó Ngựa, Bính Chuột, hầu,
Sáu Đinh nàng Ngọc cưỡi Rồng Hổ.
*Còn có Tam Kỳ du Lục Nghi,
Gọi là Ngọc nữ thủ môn phi.
Mậu Tý, Kỷ Mão và Canh Ngọ,
Bính Ngọ, Đinh Dậu, Ất Mão kỳ.
Lợi việc riêng tây, hòa hợp nẻo,
Cung đình yến tiệc cũng nên khi.
* Tam Kỳ nhập Mộ dùng làm chi
Giở việc giờ này có thể nguy.
Ngũ bất Ngộ thời càng đáng hận,
Gọi là Nhật Nguyệt tối âm u.
Là lúc Can giờ Khắc Can Nhật,
Trăm việc đều hung, chẳng được gì.
Thuận, nghịch Trực phù thông bảy thần,
Địa nơi ẩn nấp, Thiên dàn quân.
Thái âm, Lục hợp nơi về lánh,
Câu trận, Đằng xà, ruộng đất ganh.
Bạch hổ phương tây, thần chém giết,
Huyền vũ trộm cắp phỏng lần chân.
Thiên ất Lục Mậu khó mà gặp,
Gấp phải theo thần, hoãn kiếm môn.
*Thiên Tam môn, Tứ địa hộ,
Hỏi nhau phép ấy nơi nào đó.
Thái xung, Tiểu cát với Tòng Khôi,
Đó gọi Thiên môn, nơi xuất lộ.
Địa hộ: Trừ, Nguy, Định với Khai,
Đến việc, đường này thông lọt dễ.
*Thái âm, Lục hợp, Thái thường quân,
Là Địa tư môn, ba cát thần.
Thêm được Kỳ môn cùng chiếu đến,
Ra ngoài mở việc, dạ hân hân.
Thái xung, Thiên Mã là chân quý,
Có nạn theo đây mà lánh đi.
Ví gặp thời may cưỡi ngựa trời,
Hổ báo chôn chân khôn kịp ví.
*Tối cát kỳ môn với Thái âm,
Ba ban khó được cùng chiếu lâm.
Cung Phương nào hợp cũng là quý
Mọi việc làm ra sẽ toại tâm.
*Sáu Bính, Sinh môn trên sáu Mậu,
Thiên độn là đây, nên tới đậu.
Sáu Ất, Khai môn trên Kỷ bay,
Địa độn là đây, lợi ẩn giấu.
Hưu môn, Lục hợp, Đinh, Thái âm,
Nhân độn là đây, từng kết cấu.
Ba độn trên đây trăm việc hay,
Giấu ảnh, thu hình càng tốt sâu.
*Ất Tân là Bồng, Hưu Khảm thấy,
Long độn là tên, giữa nước quẫy.
Tân Ất hùm thiêng gặp cửa Sinh,
Gọi là Hổ độn, rừng cao nhảy.
Lục Ất trên Tân hợp cửa Hưu,
Hơi nước sinh phong, Phong độn kêu.
Lục Ất trên Tân, Sinh đến hợp,
Nguồn Cấn, đất Khôn, Long độn chiều.
*Sinh và Bính Nguyệt trên Cửu Thiên,
Thần độn nơi đây, để phúc duyên.
Bằng nay Ất Nhật trên Cửu địa,
Quỷ độn là đây, đạt ảo huyền.
*Lục nghi kích hình, giờ rất hung,
Trực phù hình xứ, với thời cùng.
Tý – Mão, Tuất – Mùi, Thân hiềm Hổ (Dần).
Thìn, Ngọ tự hình Thìn, Ngọ cung.
*Thời, Nhật, Môn, Tinh có Phục ngâm,
Hưu trên Hưu ấy, Bồng trên Bồng.
Tiền của chỉ nên đâu để đó,
Làm liều, tai hại đến sau lưng.
*Đến như Phản ngâm Tý trên Ngọ,
Càng ngại Môn, Phù xung đối đọ.
Hãy mở kho ra chẩn phát đi,
Ra quân, động súng thì xui xó.
Kỳ môn sao cát ví cùng lâm,
Miễn được hình tai, may mắn có.
*Cung khắc Môn hại, lại chiêu tiền,
Môn chế cung, cung hủy bách liền.
Cát môn bức bách nhiều tật bệnh,
Hung môn gặp bách, hung dấy lên.
*Bính là bột nghịch, Canh là cách,
Gặp cách không thông, Bột loạn nghịch.
Bính cưỡi Can Ngày với Trực phù,
Kỷ cương xáo trộn khôn ngăn trách.
Canh trên Bản Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời,
Đều là Can Cách, sinh tai khích.
*Sáu Bính trên Canh, Huỳnh nhập Bạch,
Giặc đang muốn rút, thế nên được.
Sáu Canh trên Bính, bạch nhập huỳnh,
Tin giặc tới nơi, thế mạc trắc (không lường được).
Canh trên Trực phù, Thiên Ất phục,
Trực phù trên Canh, Thiên Ất phi.
Trên cung một ấy, chiến trong nội,
Hình cung một ấy, nước loạn thì.
Canh trên Quý ấy, Cách là Đại,
Trên Nhâm là Tiểu cách suy vì.
Trên Kỷ là Hình, đường cách trở,
Can ngày trên Canh, Phi can suy.
*Còn có một ban gọi cách “Thì”
Là khi Canh đến trên ba Kỳ.
Lúc này ví thấy xuất quân khứ,
Một ngựa, một xe, chẳng trở về.
*Sáu Quý trên Đinh, Xà yêu kiều,
Trong lòng bối rối, nỗi tâm tư.
Đinh trên Quý: Tước đầu giang đó,
Kiện cáo, gian ngoan đủ mọi chiều.
*Sáu Tân trên Ất, Hổ xướng cuồng,
Là ngại người thân bị tổn thương.
Sáu Ất trên Tân Long đào tẩu,
Tiền tài tiêu tán, dạ kinh hoàng.
*Long hồi thủ bởi Giáp trên Bính,
Trong dạ vui mừng như ý mong.
Bính trên Giáp gọi Điểu điệt huyệt,
Mọi việc đem làm được đại công.
*Động việc Thiên bàn là phía Khách,
Địa bàn yên tĩnh là Chủ vạch.
Xét kỹ Kỳ môn với Tinh Cung,
Cùng là Hình Khắc, cát hung quyết.
Nhật Nguyệt chia xem phương vượng suy,
Lại xem khí sắc áng mây ven.
Giả như Bồng ngự trên cung Chín,
Được tháng Thu Đông, vượng tướng truyền.
Ngày gặp Quý Nhâm và Hợi Tý
Khí đen phương Bắc, Khách đương lên.
Thiên Anh ví ngự trên cung một,
Phương Bắc, ngày Đông Chủ lợi hơn.
Tinh vị Kỳ môn suy phỏng thế,
Người với Thời Phương xét nét nên.
*Từ Dần đến Ngọ năm dương thì (giờ Dương),
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu hợp nghi.
Chiến trận xuất hành thì Khách thắng,
Hôn nhân, khởi tạo, đổi rời khi.
*Từ Mùi đến Hợi năm giờ Âm,
Và Kỷ Canh Tân Nhâm Quý tầm.
Lợi Chủ, tập mưu, dự bị dụng,
Còn nên cầu đạo với đi ngầm.
*Mười Can, sáu Giáp là Chủ tông,
Trên dưới giao thừa khai hạp phân.(Khai là Mở, hạp là đóng)
Dương tinh trên một cung Khai, cát,
Âm tinh trên một cung hạp, hung.
Giáp Mạnh nên chiến, Trọng lợi Thủ,
Cung phương trên Quý cát tự hung.
Tiến lui, mở việc, bằng Thiên cục,
Tắc lối, âm mưu, địa tĩnh dùng.
*Ba kỳ mà thấy ở năm dương,
Thì nên làm Khách mới cao cường.
Ví ở năm âm Kỳ xuất hiện,
Lợi về phần Chủ, liệu tìm phương.
*Ba kỳ sâu kín diệu khôn đòi,
Âm nghịch nên sau, dương trước, xuôi.
Mỗi thời chia rõ Sơ, Trung, Mạt,
Phù đầu giữ trọn trước sau coi.
*Đức ất vãng lai, loáng tựa thần,
Đi thì rượu thịt, của tiền cần.
Tám cung hôn nhân, chuyển, hay cho Khách,
Chỉ ngại roi hình với giận dằn.
Nguyệt Kỳ sáu Bính gọi Thiên oai,
Khí lửa nung ..m, yên mọi nơi.
Ra chợ, vào quan, Tiên được gặp,
Nghe trông lo lắng, ngóng mừng vui.
Sáu Đinh, nàng ngọc Thái âm tinh,
Lui tới Minh u, cũng mặc tình.
Xin yết, buôn, hôn đều cát cả,
Mừng lo phân nửa lợi tư doanh.
Sáu Mậu, ba môn, hung chẳng khởi,
Cưỡi rồng muôn dặm tùy lui tới.
Ngựa đi không tiếng, Khách theo chân,
Buôn bán được tiền, chạy sợ hãi.
Kỷ là Lục hợp lợi cơ mưu,
Ẩn giấu như thần, trời cũng chiều.
Lui tới ra đi trăm việc lợi,
Kinh đi, hung lánh, lợi dân nhiều.
Sáu Canh, Thời gặp, tuyệt năm hồi,
Ví cưỡng mà đi tới ngục trời.
Buôn bán toi công, làm vật tổn,
Chỉ nên cố thủ là may thôi.
Sáu Tân ra gặp tử thi bầy,
Cưỡng việc, Thiên đình phạt tới tay.
Quan, Bệnh, Buôn, Hôn đều trở ngại,
Tự tìm lợi quyết, tội liền ngay.
Nhâm thực Thiên lao, cưỡng việc dùng,
Mong che, lợi lấp, trốn thì vong.
Bệnh thì thăng giáng thêm hen suyễn,
Quan lại cừu thù, trăm việc hung.
Quý tàng, xuất nhập, mọi ưu hung,
Lợi việc tìm Tiên, lợi trốn trong.
Ẩn tích giấu hình ai thấy được,
Bệnh thêm trầm trọng, ngày mung lung.

Thi quyết 9 tinh cát hung
Thiên Bồng:
Thiên bồng mọi việc lợi Thu Đông
Kiện cáo, yên bờ, Xuân hạ công.
Dựng gả không hay, thay đổi dở,
Vào quan lối hiểm, cửa nhà hung.
Bán buôn, chôn cất, làm đều bỉ,
Có được Kỳ Môn mới tạm thông.

Thiên nhậm:
Kìa sao Thiên nhậm thấy uy nghi,
Trăm việc cầu mưu lợi bốn thì.
Tạo táng, vào quan và thỉnh yết,
Đi buôn, dựng gả với rời đi.
Ngoài biên cũng tốt khí thần vượng,
Lai phát cơ duyên, Khách gặp nguy.

Thiên xung:
Thiên xung báo oán, sân xuân phong,
Muôn dặm oai phong, đởm khí hung.
Không lợi Thu Đông, Xuân Hạ thắng,
Vào quan, buôn bán việc long đong.
Hôn nhân, chôn cất, xây, sinh khó,
Chờ đợi Xuân về, muôn việc thông.

Thiên Phụ:
Thiên Phụ tu thân, lợi tạo doanh,
Xuân hè chinh phạt nước non bình.
Tội hình cũng được trời tha bổng,
Tiễn xuất vào quan, công việc thành.
Giá thú đông con, buôn lắm lợi,
Đổi rời, yết kiến thì vô tình.

Thiên Anh:
Thiên Anh sao ấy thực loanh quanh,
Yến tiệc, đi xa, thú vị trù.
Chôn cất, vào tu, hôn thú tốt,
Xây nhà dựng cửa lại không chu.
Chủ nên cẩn thận, dừng nên Khách,
Khách ví chưa công, nguy có cơ.

Thiên nhuế:
Nhuế tinh vào đạo kết giao nên,
Giờ việc, đi chinh chớ tự quyền.
Trộm cắp, sợ lo, thương trẻ nhỏ,
Tai hình, tù ngục, việc quan liền.
Xuân Hè hung lắm, Thu Đông cát,
Ví được Kỳ môn cũng chẳng hơn.

Thiên Cầm:
Thiên Cầm đóng giữa bốn trời thông,
Nói lớn ăn to, có đại công.
Hoạt động nên dung mưu trả phục,
Tế thần cảm ứng việc quan xong.
Hôn nhân buôn bán và xây cất,
Thêm có Kỳ Môn phúc đỏ hồng.

Thiên Trụ:
Thiên Trụ trên non, xây cất lành,
Tế thần, giá thú, việc thông hanh.
Giấu hình, giữ cẩn là hơn cả,
Rời đổi, đi chinh phải thụ hình.
Các việc doanh mưu đều xấu cả,
Cưỡng làm, Chủ hẳn bị thương kích.

Thiên Tâm:
Thiên tâm mầu nhiệm đạo thần tiên,
Luyện thuốc, cầu trên, mọi việc nên.
Giá thú, vào quan, cùng đổi chuyển,
Đi chinh, chôn cất, tế cầu yên.
Thu đông thì cát, Xuân Hè xấu,
Quân tử thì hay, dở tiểu nhân.

Thi quyết 8 môn cát hung

Cửa hưu:
Cửa hưu chín chín khí đầy nhà,
Con cháu giầu sang đất cát đa.
Tế lễ, kinh doanh, nhà đến ở,
Phó quan, rời đổi tốt đều hòa.
Đẻ lành, lánh kín, người hưng thịnh,
Bắc vượng ngày Đông, sáu một qua.
Nam Bắc hôn nhân, quen thuộc cả,
Lại qua sáu súc (giống nuôi), trật quan gia.

Cửa Sinh:
Cửa Sinh tám tám, khí đây sao,
Hung sát đều hàng, Thổ đắp cao.
Đợi gái mang tiền, người gửi vật,
Từ nay phú quý, cháu con trào.
Ba năm, định có sinh con quý,
Đi lại ngoài châu, tiền của vào.
Giá thú, gieo mầm và dựng đổi,
Tiêu tai, phát phúc lạ lùng sao.

Cửa Thương:
Cửa Thương khí đoản, số ba ba,
Dần Mão vượng phương, âm Dốc pha.
Săn lưới, đi chinh, đòi lấy nợ,
Còn hay cờ bạc đuổi người qua.
Quant ư, cãi cọ, tang chồng chất,
Sáu súc toi luôn, trộm cắp sà.
Chồng vợ choảng nhau, còn mắt bệnh,
Ba tuần đẻ nạn, họa đào pha.
Tuổi tên chết mất và phong chứng,
Hổ rắn thương người, ở khó qua.

Cửa Đỗ:
Đỗ môn bốn bốn, ấy sao hung,
Tính mộc, phương nghiêng Dần Mão đông.
Đóng, dắt, ngăn dòng, nhiều lấp liếm,
Đuổi tà, đinh trộm, móc câu tròng.
Đi vong, trốn khó, thôi mong muốn,
Ẩn nấp, che thân, kín đáo vùng.
Đuổi mạnh, đi xa, thì lẽ đúng,
Riêng tư có thể giữ lâu cùng.
Những khi động dụng phòng quân trộm,
Tài tán, quan tư, ôn dịch xông.
Sét đánh, rắn thương, người ghẻ lở,
Nhà siêu, kho cháy, lại người vong.

Cửa Cảnh:
Cảnh môn bẩy bẩy tía hồng quân,
Tị Ngọ vượng Nam, kết Tuất Dần.
Sai sử, đưa thư, nguy giải ách,
Cầu mưu, tu tạo, yết cầu thân.
Cất chôn, dựng gả, lành trong việc,
Cấp thưởng dùng người như cánh chân.
Hiến kế, cầu danh, gần bệ ngọc,
Kén tài, khoa cử, nổi danh văn.

Cửa tử:
Cửa Tử hai hai, tinh ngược ác,
Cấn Khôn Mậu Kỷ là phương được.
Lưới săn, giết chóc, phương này nên,
Tống táng, viếng tang thì cũng thích.
Xây dựng lo trên với kẻ bằng,
Tang trùng kẻ chết nhiều ngang ngược.
Cầu mong không lợi, chẳng nên cầu,
Động, thấy thua toi, quan mất chức.

Cửa Kinh:
Cửa Kinh không hóa khí là ngược,
Vượng ở Canh Tân Thân Dậu cước.
Vó lưới chăng cao, tụng ngục chờ,
Cửa công, hình kích, đều theo bước.
Trốn đi, lừa bắt, đều có công,
Bán chợ, tu doanh, thua lỗ trước.
Kiện tụng, kinh hoàng, tật dịch hưng,
Bại tù, quân giặc, chó dê chết.

Cửa Khai:
Cửa Khai sáu sáu khí đầy phè,
Yết kiến, cầu mưu, lợi lộc ghê.
Dựng cửa, xây nhà, quan chức tiến,
Ngoài về tiền lụa ngựa trâu dê.
Mật ong hầm chứa, hoạch phát tài,
Con cháu giàu sang, danh lợi đề.
Thân Dậu Canh Tân, Thu nguyệt vượng,
Bán buôn, sản xuất lợi Thu về.

Kỳ môn 9 tinh ngày
Lại còn Thái ất chín tinh vị,
Đông chí từ Cấn, Khôn Hạ chí.
Khởi từ Giáp Tý, thuận nghịch hành,
Bản nhật tới cung Thái ất ký.

Thái ất cầu tài vạn sự thông,
Nhiếp đề, đâm đánh náo ồn trông.
Hiên viên xuất nhập nhiều kinh hãi,
Phạm phải Chiêu dao máu đổ hồng
Ví được Thiên phù săn bắn lợi,
Thanh long kiếm lợi, hỷ trùng trùng.
Hàm trì đưa đến quan nha hỏi,
Gặp Thái âm tái ẩn chất chồng (ám tài).
Thiên Ất quý nhân nhiều rượu thịt,
Chín tinh ứng nghiệm rất linh thông.

ĐÌNH ĐÌNH – BẠCH GIAN
Trên Trời rất quý là Đình Đình. Nên tựa nơi đây kích mặt xung.
Phép tìm Đình Đình:
Nguyệt tướng trên thời Thần hậu đó (Đình đình đây)
Sinh thần, tựa hướng một ban cùng.
Trên trời thần hảo Bách gian vị,
Cách ở Dần Thân, hợp Tị Hợi (do đình đình thấy Bạch gian).

CÔ - HƯ
Nguyệt tướng trên Thời câu Mạnh thần
Hợi Dần Thân Tị hợp Mạnh đề.
Trong đó Cô đều Nhâm Quý phương,
Cung đối phương là Hư đóng đó.
Tựa Cô, Kích Hư, Hư dụng gian,
Một bà địch nổi trăm ông đó.


KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 23

LUẬN TINH 10 PHƯƠNG SINH KHẮC

Thiên nguyên tức thị, Người Thời Nguyên
12 phương vị, người ngồi bên
Nguyệt tướng tìm giờ theo thứ định
Quý nhân nên xét ,can ngày truyền
Thiên nguyên :vua, bố, chồng, chủ sự,
Người tôn, bậc trưởng, đầu và da,
Quý thần, quan lộc, tâm, nhà chủ,
Quân lại ( các công chức ), ngoại tài, vú ức, rốn.
Nguyệt tướng:anh em, thân thích trùng,
Nội tài, con, vợ, bụng, eo, lưng,
Dưới là tôi tớ, thần dân, thiếp,
Cháu, cẳng, trong nhà,vật vật cùng.
Can khắc phương là thê thiếp động
Hao hụt tiền tài, kẻ dưới đau (ốm)
Bên ngoài mắc phải nhiều tai tiếng
Trong nhà chẳng liệu được vui đâu
Can khắc thần là quan lộc động
Quan, tài đều vượng, phi thường thay
Người ngoài định kế, mưu làm hại
Chợ khg lợi lộc, kiến tan ngay.
Can khắc Tướng là động nội tài
Cầu tài được lắm, vợ đau hoài
Thêm nhà, thêm cửa, nhiều xây dựng
Đem vốn cầu tài, lợi mấy mươi.
Can sinh thần:kẻ thân vào hỏi,
Lại có người ngoài, đồ biếu tới.
Biếu đồ quan phủ vẫn hay dùng,
Biếu đi biếu lại nhiều phen phê dối.
Can sinh nguyệt tướng :nội tài hưng
Đồ vật người đem biếu xén từng
Nội ngoại anh em hòa khí hợp
Cha từ, yêu mến cháu, hay chăng.
Can sinh phương vị :ân mưa móc,
Ấm con, thêm cháu, tiền, nô bộc,
Xem sản vừa hay, dễ nấng nuôi,
Phi thường ân sủng, trời ban phúc.
Thần khắc can là động lộc quan
Sĩ phu vị có ,khó cầu tiến
Người thường được vật nhà quan dụng
Tiền về,chồng tổn,họng đau khan.
Thần khắc Tướng là nội tặc sinh
Gian lừa giăng mắc, trộm chung quanh
Tổn tài, con trẻ hay đau bệnh
Cầu vọng không thành, bệnh khó lành.
Thần khắc phương là cách trở nay
Cầu tài muộn được, việc chờ ngày
Chủ nhân giận khiến đau nô bộc
Xem bệnh bụng đau, chân lắt lay.
Thần sinh can : được quan tiến dẫn
Người mang vật biếu, gặp quan trên
Được thời, tế tự nên linh ứng
Có định tìm ai, gặp mặt liền.
Thần sinh Tướng ấy, hôn nhân hay
Trân vật: có người đem tặng nay (mai )
Cầu vọng, mưu vị :đều toại ý
Dặm thẳm người về :sắp tới đây
Thần sinh phương vị :cách thần động
Uyển chuyển mưu làm việc mới thành
Gia chủ ôn hòa ân huệ xuống
Gia nô tận lực, nghiệp sinh doanh.
Tướng khắc can: mừng cách cả hai
Việc mừng hớn hở, ở trời xui
Cầu tài trở cách, việc thành khó
Phải đợi Lộc trời hợp mới hài.
Tướng khắc thần là tài động hưng (hung hay hưng ?)
Cầu tài được lợi, vợ đau từng.
Cầu quan không được, bệnh khốn trị
Xuất ngoại thương đau, tổn hại cùng.
Tướng khắc phương thì cứ phải lo
Lo cho tật bệnh, đau chân giò
Trẻ đau, tiền, tớ nhiều thương tổn
Kiện tụng trong nhà, yên chẳng cho (khg yên )
Tướng sinh can:ấy được yên lành,
Hòa hợp trong ngoài,vợ chánh trinh.
Tiền của tăng thêm, con hiếu thuận.
Người thì mạnh khỏe, cửa nhà bình.
Tướng sinh thần: chủ hợp hòa
Điềm lành trăm việc, phúc thêm gia
Vợ hiền, con hiếu, nhà êm ấm
Cứu giúp tiền nong, dựng quán nhà
Tướng sinh phương: sao tốt lành
Lụa tiền đưa đến, giúp thân tình
Cháu con mừng rỡ, nhiều đưa dắt
Trời tựa cho nên có phận dành.
Phương khắc can là động quỷ quan
Quan hạnh, xuất ngoại, kiện lan man (hạnh :cố chấp ,gàn)
Tai ưu, cải cọ, con cầu tổn
Ẩn lánh nơi này chẳng được an.
Phương khắc thần là quan lộc động
Cầu quan thêm lộc, tất thành danh
Thương thần tiến cử không ai tiến
Quan giận, liên miên có ngục hình.
Phương khắc tướng là lộ giặc ngoài (ngoại tặc )
Hao tài, thê thiếp có ương tai
Xuất gia, người muốn tìm tu đó,
Vật mất đi tìm thấy lại ngay.
Phương sinh thần ấy sao dùng Hòa
Uyển chuyển mưu làm, tốt đẹp mà.
Nô bộc tận tâm trung với chủ,
Cửa nhà sáng sủa, vượng thêm ra.
Phương sinh can sao hiếu trung,
Vua, thày (quân sư), cha mẹ (tất) cả vui mừng.
Ấn trao, bay nhảy nhiều phương ích
Tế lễ, nên hay phúc lại trùng .
Phương sinh tướng được Nhâm tinh
Đất chờ điềm lành, hỷ khí sinh
Hòa hợp, hôn nhân, mưu vọng được
Gia đình hòa khí, nghiệp thay tình.
Thượng thuận hạ sinh :phúc khánh trời
Người ngoài biếu vật, tiến thêm tài
Thêm đinh(người), trăm việc:đều hòa hợp
Đẻ dễ, người đi về đến nơi.
Hạ thuận thượng sinh :đẹp xuất hành
Kinh thương nhiều lợi, đẹp tâm tình
Cầu quan được cất (nhắc ), mộng ân nhắc
Hỷ tính trong nhà truyền báo nhanh.
Thượng thuận khắc thời :ngoài khắc trong
Người ngoài giả dối mưu hại lòng.
Ghét ganh, tài phá, trên đè dưới
Chân bệnh, cơ ngơi nhiều thoát trong
Hạ thuận khắc thời :trong khắc ngoài
Trẻ con ngổ nghịch, quan tư hoài
Lằng nhằng, tiền mất, nhiều tai tiếng
Mửa tháo, làm đau :biết cậy ai.
Can -Thần cùng tỉ (hòa ) :cận mưu thân
Không phạm họ hàng, không lụy gần
Thần -Tướng tỉ (hòa)cùng :thân thuộc tốt
Mưu làm, nhờ vả được tôn thân
Tướng -Phương Tỉ ấy: bạn bè nhau
Nhờ bạn việc thành, chẳng đợi lâu
Can-Qua :ví như huynh đệ loại (can-qua:gươm-giáo)
Sự mưu không thực :ghé vai đâu?
Toàn tỉ: người thân thuộc chập chùng
Ta thì đoạt chính :cháu hơn ông
Dưới trên hổn độn :không riêng rẽ
Hung có, cát không, nạn ngại ngùng.
Thần cùng can hợp: hợp ngôi quan
Thi cử đua tài, vượt vũ môn
Còn kẻ tầm thường vương kiện cáo
Mong cầu nho nhỏ dễ thành toàn
Thần Tướng hợp cùng: là chính hợp
Hôn nhân thành tựu, việc hanh thông
Lại nhiều bằng hữu, người lân giúp (hàng xóm)
Duy bệnh sui về Thu với Đông
Tướng Phương cùng hợp: là giao hợp
Hôn nhân, xa cách, lâu năm (sẽ) thành
Mưu cầu, thành muộn, đau mong đợi
Lấy dưới động trên, hợp mới nhanh.
Can cùng Tướng hợp: tên là cách
Nội ngoại quan phòng, chậm tiễn đưa
Phương hợp Thần là việc quá cũ
Trẻ nhờ tựa lớn, việc không chờ.
Phương cùng Can hợp: người mưu ta
Có việc tranh giành trong cửa nhà
Phương vị-Tinh-Kỳ -Môn các Tướng
Cát hung, bình ổn tùy thời pha.
Bằng vai là vượng-Ta sinh tướng
Hưu ấy Thê tài -Tù quỷ vương
Tử là cha mẹ chia trọng khinh
Hữu khí đại hưng, vô (khí) đau ốm.

*Đại cát tinh vượng: nên thắng tiểu (cát tinh)
Vô khí không bằng tiểu tinh lành (Mộ -hình -không -tuyệt...)
Cát khí gặp thời nên vượng tướng
Vạn sự vạn toàn:công nghiệp thành
*Hãy xem Thần Tướng và định mệnh
Sao ác nhiều nhà không chịu luận
Thái tuế, quan phù hiện cả lên
Ép sát dương hung (yểm sát trạc hung) hiển linh định
Ví nói tiền tài, tài rẻ phát
Ví gặp Không vong rẻ mất không
Ví gặp Hưu Tù cùng Phế Bỏ
Khuyên ai bất tất tiến gì nung
Ta nay suy diễn cục Thái số
Biến dịch tùy thời thấy đạo tông
Trực phù là lưới (cương )-Sứ là mắt (mắt lưới)
Diễn đến non Tây hết số vòng
Môn là ngoại quái -Cung là nội
Trực sứ quản giờ chính quái trông
*Hào bay xuất hiện, mắt trông đoán
Hào phục ẩn tang, tường hậu đâu
Phản quái tiên thiên cùng đối thủ
Hướng về phương ấy địch xem lưu
Xét cả vị lai sau các việc
Dụng :xem vượng Tướng Hưu Tù cầu
Hào Dụng thương có (bị thương ), tìm sinh cứu
Tuyệt xứ phùng Sinh, trong dạng sưu (sưu tầm)
Hai khoản phân minh suy đoán loại
Khuyên ai nhất nhất thuộc làm đầu
Nhắm cung bản mệnh, sáu nghi đầu
Giáp tý hành niên, bản mệnh đầu
Bản mệnh trong cung khởi Giáp tý
Âm dương thuận nghịch 1 vòng chu
Mệnh với hành niên tùy cung đoán
Biết ngay tình tính xuống lên (hưng ,vong ) cầu
Ba Dịch nên xem Chu Dịch chủ
Phép xem mở sáng biến tầm sưu
Tam, ngũ nghiên cơ :duy tại kỷ (tại ta)
Dụng tới sâu xa, chí thành cầu
Ví hay niệm mãi trong lòng ấy
Có thể tiến nơi cao cả mầu ./.

Yếu quyết Kỳ môn trên bàn tay

1- Kỳ môn huyền diệu chín cung trên,
2- Độn đến Kỳ nghi thuận nghịch truyền.
3- Cung cục Tinh Môn theo Giáp đổi,
4- Ngày giờ nên Độn năm Tý Nguyên (Nhật thời tu độn ngũ tý nguyên).
5- Trước đem tuần Giáp cầu Phù Sử,
6- Rồi đến Thời thần cùng đến an.
7- Rồi xét Can giờ cung nào đến,
8- Cung số Tinh Môn ghi đích đoán.
9- Tiện đem Phù Sử bay trên chín,
10- Hưu đến cung hai, khởi hai trên.
11- Nhậm trá cung ba, từ ba khởi,
12- Tinh-Kỳ-Môn hợp, mới kỳ nên.
13- Tám môn, Chi Can bay trên Địa,
14- Sinh khắc Hưu vượng, cát hung yên.
Đó thực thần tiên bí quyết,
Đã học, ngàn vàng chẳng thể truyền.
Chú giải:
1-Tức 9 quyết trên bàn tay.
2-Độn dương bầy thuận 6 nghi: Giáp Tý Mậu, Giáp Tuất Kỷ, Giáp Thân Canh. Giáp Ngọ Tân, Giáp Thìn Nhâm, Giáp Dần Quý. Bầy nghịch ba Kỳ: Tinh kỳ Đinh, nguyệt Kỳ bính, Nhật kỳ Ất. Độn âm bày nghịch sáu nghi, bầy thuận ba kỳ.
3.Giả như độn dương, cục 2. Trong 9 cung, từ cung Khôn khởi Giáp, đến giờ xem thì chỉ. Tuần Giáp Phù đầu đến cung nào, lấy Tinh và Môn cung ấy, Tinh là trực phù, Môn là Trực sử.
4-Ca rằng:
Giáp Kỷ hôm nay, giờ Giáp Tý,
Ất Canh, tìm Bính đầu giờ chỉ.
Bính Tân giờ Mậu Tý bắt đầu,
Tý của Đinh Nhâm, Canh có ý.
Mậu Quý tìm giờ Nhâm Tý coi,
Ngày giờ lần lữa đều đều chỉ.
Ca này để tìm giờ hằng ngày. Như ngày Giáp Kỷ, giờ Tý là Giáp Tý. Ngày Ất Canh, giờ Tý là Bính Tý…
5-Tức Tuần Giáp trên rơi vào cung nào. Tinh cung ấy là Phù, Môn cung ấy là Sử.
6-Giờ xem rơi vào cung nào, lấy Trực môn bầy trên là Sử.
7-Giả như lấy Giáp Tý trên Giáp X….Phù đầu trên cung 9, tính đến cung Giáp thì ngừng. Ngoài ra các cung thuộc kỳ, độn dương là Đinh, Bính, Ất, độn âm là Ất Bính Đinh. Theo từng cung một, Giáp Tý khởi đầu là Mậu, đến Kỷ Canh tân Nhâm Quý. Xem can giờ tới cung nào thì bầy Trực phù trên cung đó. Ất Bính Đinh ở đó cũng vậy
8-Ghi rõ cung Tinh Môn đó tiện thành cục.
8 Quái có định vị, tuy gặp Âm Dương 2 độn cũng không động. 9 Tinh cũng có định cung, tùy theo Trực phù mà bay. Xem cục X….trên khởi Tý đến Giáp x….phù đầu, tức chia Tinh môn. Lại đếm đến Môn X…tức là Thời. Như trên Giáp Tý khởi Mậu đến can giờ.
9-Trên tay, bay 9 cung. Đặt xong Kỳ môn thì lành dữ thấy được.
10-Như độn dương, cục 2, ngày Giáp Tý, giờ Ất Sửu, cửa Hưu bay đến cung Khôn 2 thì dừng. Đó là Môn, Trực sử.
11-Nhậm ở cung 3, tức Phù đến cung 3.
12-Chín Tinh, Kỳ môn đều cần được hợp mới nên dùng.
13-Tám môn Chi Can đều trên Địa bàn, cần được tương sinh mới dùng được.
14-Lấy Hưu Vượng Mộ Khắc mà suy cát hung.
Lời người dịch:
Độn dương, cục 2, ngày giáp Tý, giờ Ất Sửu, thì Trực phù là Mậu Giáp Tý bay từ cung 2 đến cung 1, trên Ất là can giờ. Cung 2 có cửa Tử, vậy Tử môn là Trực sử, giờ Giáp Tý ở cung 2, giờ Ất Sửu bay trên cung 3.
Vậy Trực phù trên cung 1 là cung của Hưu môn, Trực sử trên cung 3 là cung có Thiên xung, chứ không phải Thiên nhậm. Nhậm ở mục 11 trên đây không khớp vào đâu cả



Hình đồ bầy 9 cung trên tay Hình đồ 9 cung bầy trên tay

Ngựa vượt khe tung vó,
Gặp Dần nhiều Lợn Chó.
Mỗi cung, mỗi cục qua,
Không dùng Lợn Chuột Trâu.
Dương thuận, Âm nghịch.

Quyết siêu thần Tiếp khí chế nhuận
Nhuận Kỳ tự có quyết huyền diệu(1)
Thần Tiên không chịu nói rõ ràng. (2)
Phù đầu, hai chữ Giáp Kỷ chọn, (3)
Tý Ngọ Mão Dậu là cục trên (4)
Dần Thân Tị Hợi cục Trung đó,
Thìn Tuất Sửu Mùi, cục Hạ len.
Tiết thông Phù, Phù thông Tiết,(5)
Muôn lạng hoàng kim không dễ truyền
Trước Tiết gặp Phù thì Siêu độ,
Sau Tiết gặp Phù thì Tiếp liên.
Siêu thần Tiếp khí mà thông hiểu,
Là khách ngoài mây ba núi tiên.
1.Lấy giờ đặt nhuận.
2.Đặt nhuận ở trước 2 Chí: Đông, Hạ. mỗi tháng tiết khí lấy linh 30 ngày, 5 giờ, 2 khắc làm chuẩn. Lấy 30 ngày chia 6 cục thì còn dư 5 giờ 2 khắc. Phép đặt nhuận, khi gặp Khí Mang chủng hay Đại tuyết mà thấy đã Siêu quá 9 ngày, thì đặt Nhuận. Đại khái 5 ngày là một nguyên. Mỗi ngày 12 giờ.
3.Giáp Kỷ này thật là Chí yếu. Đặt nhuận, lấy 2 chữ Giáp Kỷ làm Chủ. Giả như Phù Giáp Kỷ đã đến trước gọi là Siêu. Phù Giáp Kỷ chưa đến gọi là Tiếp. Giáp Kỷ với Tiết cùng đến gọi là Chính.
4.Giáp Kỷ gặp Tý Ngọ Mão Dậu là thượng cục.
5.Phù tức Giáp Kỷ phù đầu. Tiết tức Tiết khí.

Sáu Giáp lợi dụng
Kinh nói:
Khi có việc dùng, trăm việc đều hướng về phương sáu Giáp, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả vào trong Thái âm, lại hô tên thần Thái âm thì vào Quý nhân được vui mừng, gặp trận thì thắng.
Tuần Giáp Tý, tên Thần là Vương Văn Khanh. Khi đăng đàn bái tướng, Tướng lệnh chịu nhận binh phù. Khi nguyên soái định kế khởi binh, phát lương trữ….đều hướng về phương ấy, hô danh thần ấy, đi 60 bước, chuyển tả, vào trong Thái âm thì nắm giữ việc như thần.
Tuần Giáp Tuất, tên Thần là Từ Hà Lợi Thông. Khi phạt rừng núi, làm bằng đường đi, khơi thong sông ngòi, được tự nhiên mở đường không tổn hại, đều hướng về phương ấy, hô tên thần ấy, đi 60 bước, chuyển tả vào Thái âm, thì được như ý, đường xá tự thông.
Tuần Giáp Thân, tên Thần là Cái Tân. Khi vào núi săn bắn, lùng bắt hổ lang, trùng thú, đều hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, trùng thú tự nhiên không chạy.
Tuần Giáp Ngọ, tên Thần là Linh Quang. Khi yên doanh, bầy trận, tuần thú, chiến đấu, hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, tất là thắng.
Tuần Giáp Thìn, tên Thần là Hàm chương. Khi cầu quan, bái tướng, phó nhậm vùng dân, hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, làm quan không phải hối tiếc.
Tuần Giáp Dần, tên Thần là Giám Binh. Khi dương binh, chấn võ, dạy trận, đuổi khấu, hành quân chinh phạt kẻ không đạo, đều hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, thì xuất hành biển yên, giặc cướp tự nhiên không dấy.
Trên đây, sáu Giáp quản hạt ngũ hành tôn thần, thể thống ưa tĩnh. Lúc hành sự vẽ tượng ghi chữ mà chế thì cát. Bởi vì sáu Giáp, trong quản năm hành. Mà động ứng thì không phương nào đủ 5 hành mà lấy bỏ. lại còn đạo tương sinh tương khắc. Tay trái tượng thiên, tay phải phép Địa. Thần linh ưa tĩnh cho nên viết 5 hành để chế nhau. Đạo vận hóa không gì không kiêm thế được.
Khi muốn xuất binh, đại tướng, trong tay tả, lấy son viết chữ cường, cuộn nắm tay lại, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, có thể che yếu lấy mạnh.
Khi muốn gặp Quý nhân cầu quan và hai ngàn thạch lệnh trưởng, trong tay tả viết chữ Thiên.
Khi muốn buôn bán lợi lỗ hòa, kết giao bạn, giá thú, viết tờ khế thì viết chữ Hòa.
Khi vào núi săn bắn viết chữ Sư.
Khi coi việc (bộ công), yên dân cư thì viết chữ Cường.
Khi qua sông trị thủy thì viết chữ Thổ hay chữ Mậu.
Khi sóng gió gào thét, thuyền bè có thể đắm, đặc biệt kỵ ngày Bát phong (8 gió), Độc thủy (nước độc), Chiêu dao (vẫy vòi), hàm trì (ao liền), nên viết chữ Mậu.
Khi lên núi, vào đạo thì viết chữ Long. Rồng không dám động. Quay về phương Trực phù, đi 60 bước, chuyển tả, vào trong Thái âm. Được thế thì đạo Trời hanh.
Đây là phép diệu dụng Năm hành chế thắng.

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 24
Xuất hành hô thần vào Thái âm
Khi xuất hành đi về một phương nào, hô tên tự thần phương ấy, mà đi 60 bước, chuyển tả, vào trong Thái âm, Độn dương, trước 2 vị là trong Thái âm. Độn Âm thì sau 2 vị là trong Thái âm.
Lại sáu Đinh cũng là Thái âm, hô tên tự Thần, giờ lúc dùng. Tinh trên Thiên bàn là tên tự.
Thiên Bồng tự Tử Cầm Thiên Cầm tự Tử Công
Thiên Nhuế tự Tử Thành Thiên Trụ tự Tử Thân
Thiên Xung tự Tử Kiều Thiên Nhậm tự Tử Vi
Thiên Phụ tự Tử Khanh Thiên Ương tự Tử Uy
Thiên Tâm tự Tử…
Giả như Đông chí Độn Dương, thượng nguyên, ngày Giáp Kỷ, giờ Bính Dần. Lúc ấy, Sáu Bính tới cung 8. Lấy Thiên bàn Giáp Tý Mậu Thiên bồng bay trên cung 8. Muốn đi về phương Đông Bắc thì hô tên tự thần là Tử Cầm, đi 60 bước, vào trong Thái âm. Lúc ấy lùi lại 2 cung là Thái âm ở cung 4 (nên án 9 cung bầy mà đi từ cung Khảm 1) tức thì hướng về tả, vào Đông Nam.

Xuất hành, hô tên thần 10 can trong 12 giờ
Giáp là Thần Thiên Phúc - Vương Văn Khanh.
Ất là thần Thiên Đức - Long Văn Khanh.
Bính là thần Thiên Uy - Đỗ Đường Trọng Khanh.
Đinh là thần Thiên Ngọc - Nữ Lý Du Điền.
Mậu là thần Thiên Vũ - Tư Mã Dương.
Kỷ là thần Minh Đường – Kỷ Du Khanh.
Canh là thần Thiên Hình – Châu Du Dương, Quách Dương Chi.
Tân là thần Thiên Đình – Cao Tử Cường.
Nhâm là thần Thiên Lao – Vương Lộc Khanh.
Quý là thần Thiên Ngục – Viên Cường, Viên Tử Quang.

Thân âm Sáu Giáp (Lục Giáp Âm thần)
Tuần Giáp Tý, thần âm Đinh Mão, đầu Thỏ thân người, tên là Khổng Lâm Tộc, tự là Văn Bá.
Tuần Giáp Tuất, thần âm là Đinh Sửu, đầu Trâu thân người, tê là Lương Khâu Thúc.
Tuần Giáp Thân, thần âm là Đinh Hợi, đầu lợn thân người, tên là Lục Thành, tự là Văn Công.
Tuần Giáp Ngọ, thần âm Đinh Dậu, đầu gà thân người, tên là Phí Dương, tự là Văn Thông.
Tuần Giáp Thìn, thần âm là Đinh Mùi, đầu dê thân người, tên là Vương Khuất Kỳ, tự là Văn Khanh.
Tuần Giáp Dần, thần âm Đinh Tị, đầu Hổ thân người, tên là Hứa Hàn Trì, tự là Cự Khanh.

Tên thần Độn Giáp Môn hộ
Khi xuất hành, hành sự nên dùng.
Tuần Giáp Tý: tên Môn là Tử Nghị. Tên Hộ là Công Tôn Tế. Cởi cáo mà qua, cát.
Tuần Giáp Tuất: Tên Môn là Thiên Khả. Tên Hộ là Từ Khả. Ngửa mặt lên trời, hô to mà qua, cát.
Tuần Giáp Thân: tên Môn là Tư Mã Quang. Tên Hộ là Thạch Chiến. Cởi áo mà qua, cát.
Tuần Giáp Ngọ: tên Môn là Thạch gia. Tên Hộ là Tử Khả. Cởi áo, nhẩy mạnh mà qua, cát.
Tuần Giáp Thìn: tên Môn là Công Tôn Thác. Tên Hộ là Tư Mã Thắng. Xõa tóc rối kết lại mà qua, cát.
Tuần Giáp Dần: tên Môn là Công Tôn Quang. Tên Hộ là Tư Mã Cường. Cởi đai lưng mà qua, cát.
Làm đại tướng, khi ra vào và hành binh, không cứ nhiều ít, phương đến nơi, tất có phép đỡ. Lấy 6 làm Pháp.
Đại tướng dàn sĩ tốt vòng bên tả, vào Thái âm, hô tên Thần Môn Hộ, chú rằng:
Giáp X….có gấp, mời Thần giúp ta, đỡ ta, che ta, giấu ta, đừng để kẻ địch là thương ta, đè ta, úp ta,, năm quân đẩy bẻ đừng để tới ta. Đương ta thì chết. Nhìn ta thì mù. Khiến kẻ địch mờ mờ lặng lặng. Nhìn ta thì mê hoặc, vì ta mà loạn hồn phách, kiến kẻ địch không dám ngóc dậy.
(Chú viết: Mỗ giáp, hữu cấp, thỉnh thần tá ngã, hựu ngã, nặc ngã, tàng ngã, vô sử địch nhân thương ngã, phủ ngã, cái ngã, ngũ binh thôi chiết, vô linh chí ngã. Dương ngã giả tử. Thị ngã giả vong. Sử địch nhân minh minh mặc mặc, thị ngã mê hoặc, vị ngã loạn kỳ hồn phách, sử địch nhân bất cảm khởi).
Niệm chú xong, khiến sĩ tốt đi thẳng vòng bên tả, đừng quay đầu lại, giấu ở dưới sáu quý. Như Giáp Tý thì Quý Dậu loại ấy.

Phép sáu Giáp âm phù
Kinh nói:
Làm đại tướng, khi ngăn giặc, nên làm sáu Giáp âm phù, khiến kẻ địch thân bị giết. Cho nên nói ngàn vàng không dạy người. Âm của sáu Giáp ở giữa khoảng trời đất. Đạo này linh lắm, cất trong trap vàng, quý ở trong tâm, không truyền cho hạng phi nhân. Đừng có n

Ring ring