XtGem Forum catalog
TRANG CHỦ
Giới thiệu
Tin y tế
Bản đồ chỉ đường
Check E-Mail
Liên hệ
Sơ đồ trang


Chào mừng quý vị đến với website dongythoxuanduong.com.vn. Kính chúc quý vị an khang thịnh vượng.Nhà thuốc Thọ xuân đường chuyên khám chữa bệnh đa khoa bằng đông y.Những năm gần đây đã khám và điều trị cho trên 80.000 bệnh nhân.Kết hợp khám bằng máy chẩn đoán và thăm dò chức năng DDFAO - PRO MEDISCAN M, siêu âm, xét nghiệm, đo kinh lạc vi tính ( Việt Nam - Trung Quốc).Áp dụng phương pháp chế biến dược liệu sạch đảm bảo 100% không có chất bảo quản.Công nghệ sắc thuốc đóng túi hàng loạt của thế giới.Kỷ lục Guiness Nhà thuốc đông y gia truyền nhiều đời nhất Việt Nam.
Main Menu

P.S TRUYỀN HÌNH
BÁO CHÍ VIẾT
ẢNH TRUYỀN THỐNG
ẢNH HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG HIỆU

DÀNH CHO BỆNH NHÂN

DỊCH VỤ
BỆNH ĐÃ CHỮA KHỎI
BỆNH ĐẶC TRỊ
CẢM TƯỞNG BỆNH NHÂN
ĐẶT MUA THUỐC
GIỚI THIỆU NGƯỜI THÂN

SẢN PHẨM

THUỐC QUÝ
THUỐC NGÂM RƯỢU
SP. TRUYỀN THỐNG

Khách hàng góp ý

Đông y Thọ Xuân Đường: điều trị bệnh xoang, trị bệnh hen, trị bệnh động kinh
Đông y: bệnh hen, bệnh động kinh, bệnh xoang, Khám bệnh trực tuyến
Khám bệnh trực tuyến - Đông y
Bảng quảng cáo

Nam Y Đạo Pháp
Bằng khen
Đông y Thọ Xuân Đường: điều trị bệnh xoang, trị bệnh hen, trị bệnh động kinh
img_08863.jpg
img_0934.jpg
img_0933.jpg
Bằng khen lương y như từ mẫu
Bằng khen lương y - đông y thọ xuân đường
bằng khen đông y
Người tốt việc tốt, đông y
Người tốt việc tốt, đông y
Lượt truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counter Tất cả 1649663

ẩm thực ăn uống bện thường gặp bệnh của trẻ em Bệnh dạ dày Bệnh hen Bệnh nam khoa bệnh nội tiết phụ nữ Bệnh thấp khớp benh trẻ nhỏ Bệnh xoang Bệnh đã chữa khỏi Bệnh đặc trị Bệnh động kinh chữa bệnh dành cho bệnh nhân dịch vụ Dong y DONG Y THO XUAN DUONG dongy Nhà thuốc đông y sinh con sức khỏe tap yoga tho xuan duong Tin y tế yoga Đặt mua thuốc Đông y đôngy

+ All tags
Trực tuyến
Hiện có 154 khách Trực tuyến

Ứng dụng kinh dịch vào đời sống
Xem kết quả: / 2
Bình thườngTuyệt vời
Kinh: có nghĩa là kinh nghiệm mang tính chất kinh điển, muôn đời không ai có thể thay đổi hay bỏ bớt nó đi, vì đó là chuẩn tắc hoàn thiện cho mọi hành vi t âm thể của con người nhằm đem lại lợi ích cho sự sống, và Kinh là do trước tác của các bậc thánh nhân, hiền triết làm ra.






Vì cổ thư có câu:"Thánh nhân tác kinh, hiền nhân tác sách" mà kinh dịch là trước tác của nhiều bậc thánh nhân, bác lãm thông suốt các quy luật vận hành, biến hóa không thể đo lường của vũ trụ mà vài trăm, hay cả ngàn năm mới có một người diễn được ý của mình vào.

Cho nên Kinh Dịch được viết ra từ thời Phục Hy cho đến đời nhà Minh suốt bao nhiêu ngàn năm mới được xem là hoàn chỉnh và gần 600 năm nay chưa có ai thêm,bớt được ý nào.

Dịch là gì? Nghĩa chung của Dịch là biến đổi tức tuỳ thời mà biến đổi cho phù hợp với quy luật của tự nhiên, nhưng được chia ra 2 phần bất dịch và biến dịch như theo lời tựa." Đó là bộ sách rộng lớn, đầy đủ hầu để giúp cho con người thuận theo lẽ tính mệnh, thông đạt chỗ u minh, hiểu biết tình trạng của muôn vật, nhằm để mở mang các vật làm thành các việc".

Chữ tính ở đây có nghĩa là tính chất của trời sanh như người có tính thông minh, nhân hậu hoặc ngang tàng, bướng bỉnh hay yếu đuối, chậm, nhanh. Còn mệnh là cái mà người ta thọ nhận như sang hèn, thọ, yểu chứ không phải tính mệnh là chỉ sinh mệnh của một con người.

Do đó, Kinh Dịch là bộ sách triết học rất cao thâm hầu như chỉ dành cho các bậc hiền nhân hay quân tử là chủ yếu, chứ không hẳn là người có học vị cao, hiểu biết nhiều lại càng không phải người chỉ biết đọc chữ là có thể xem, hiểu và ứng dụng được.

Vậy quân tử là người gì? Quân tử, trước tiên là người trái với kẻ tiểu nhân; là người luôn sống thuận theo qui luật của tư nhiên: Ưa điều nhân, thích điều thiện, luôn vì nhân mà làm, vì nghĩa mà đến, việc không phải nhân không phải nghĩa thì không làm mà không màng đến danh lợi...Và họ là người đang học, đang làm theo điều dạy của thánh nhân đồng thời những người trong số họ cũng đang học tập, tu dưỡng để trở thành bậc thánh nhân.

Cho nên, trong 64 quẻ ứng dụng trên 64 lãnh vực bao trùm lên cuộc sống của nhân loại, quẻ nào lời Kinh cũng dạy đấng quân tử hãy xem tượng này mà làm như thế này...như thế này v.v...Ngay trong lời tựa cũng có dạy: "Người quân tử khi ở yên thì xem hình tượng và ngẫm lời lẽ của nó, khi hành động thì coi sự biến hóa rồi ngẫm lời mà suy đoán". Có nghĩa là người quân tử khi không làm gì thì xem hình tượng và lời giải của từng quẻ mà tu rèn nhân cách, sống cho thuận theo đạo lý và hành xử trên các mối quan hệ cho thật vuông tròn. Còn khi mưu sự để hành động thì phải xem sự biến ra kết quả của nó như thế nào? Có thành công, có tốt đẹp hay không? Tốt đẹp thì tiến hành, bằng không thì ngưng lại. Vì mụch tiêu của Thánh nhân tác thành Kinh dịch là nhằm giúp cho con người hành động theo điều tốt, trốn xa điều xấu" xu cát tỵ hung" để dựng thành đại nghiệp và phát triển giống nòi.

Cho nên, trong quá trình tồn tại cùng xã hội loài người chúng ta đã thấy những bậc hiền nhân quân tử, những nhà vua anh minh, những lãnh tụ thiên tài, những bậc quân sư xuất chúng...thông hiểu, ứng dụng nó một cách toàn diện và đã mang được lợi ích to lớn về cho mọi tầng lớp người trong cộng đồng dân tộc.

Đặc biệt lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa, Kinh Dịch được xem là bộ kinh sách của bậc đế vương không những họ phải thuộc làu để ứng dụng vào việc trị quốc mà họ còn cho diễn giải, phát triển ra thành bộ tứ thư ngũ kinh, đưa Kinh dịch đứng hàng đầu " Quần thư chi thủ" để làm giáo trình phổ cập kiến thức cho mọi cấp học, trên cơ sở đó mà tuyển dụng nhân tài ra phò vua giúp nước.

Ngoài ra, họ còn dùng những bậc uyên thâm về Dịch học để làm quân sư giúp cho mình vào việc trị quốc như Chu Văn Vương dùng Khương Tử Nha mà nhà Chu được 800 năm thịnh trị; Lưu Bang dùng Trương Lương dựng nghiệp mà nhà Hán thịnh trị 400 năm, Lý Thế Dân dùng Từ Mậu Công dựng nghiệp mà nhà Đường cũng thịnh trị được 600 năm...Đến như Tần Thuỷ Hoàng, một vị vua có tiếng là "vua đốt sách, chôn học trò" mà còn phải kiêng sợ không dám đốt vì cho đó là Kinh sách của trời nhưng vì không ứng dụng được Kinh Dịch vào việc trị quốc nên chẳng bao lâu là nhà Tần phài bị diệt vong.

Sau đây, tôi xin tóm lược phương pháp ứng dụng Kinh Dịch vào các mặt của đời sống.

1/ Ứng dụng phần bất dịch:

...Trong phần bất dịch bao gồm 64 quẻ, được căn cứ vào nguyên lý vận hành của qui luật tự nhiên và hình tượng được biến hóa của tự nhiên mà hình thành, cấu tạo nên. Có thể nói trong xã hội loài người không một quốc gia, dân tộc nào tự tách rời việc ứng dụng những nguyên lý này của Kinh Dịch vào các lĩnh vực hoạt động mà có thể tồn tại và phát triển được.

Vì đây là những phạm trù thuộc về qui luật vũ trụ, những nguyên tắc bất di, bất dịch của thế giới tự nhiên mà con người đã dùng nó làm nền tảng, hình thành nên 64 đạo lý bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của sự sống. Nhằm giúp cho con người dựa theo đó mà tổ chức, thiết chế nền tảng xã hội, rèn luyện nhân cách bản thân từ một cá nhân cho đến tòan thể cộng đồng, quốc gia dân tộc. Đồng thời, cũng giúp cho mọi người đều hành xử tốt trên các mối quan hệ với nhau, cùng giúp nhau làm theo điều thiện, xa điều ác dựa trên tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau thuận theo sự phát triển tất yếu của quy luật tự nhiên.

Và trong quá trình phát triển của các cộng đồng dân tộc trên thế giới đã cho thấy, nơi nào tổ chức được cuộc sống cho mọi người dân thuận theo qui luật của tự nhiên thì sẽ được tồn tại và phát triển, còn trái lại thì cuộc sống sẽ bị suy tàn hay sẽ bị mai một đi: Vì "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong" là như vậy.

Cho nên, ứng dụng về văn là trị được nước, về võ thì yên được dân, giúp cho mọi người trên báo được ơn nước, dưới giúp được muôn dân. Về khoa học ứng dụng được cho mọi ngành từ nông nghiệp, thiên văn, địa lý, quân sự, ngoại giao, y học, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tín ngưỡng tôn giáo.v.v...nhằm để duy trì và phát triển cuộc sống.

Tỷ như khi ứng dụng vào phạm trù y học, y tổ của ngành y đã lấy toàn bộ hệ thống kinh dịch để vừa làm y đạo cho người thầy thuốc học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức của mình trong phần bất dịch. Lại vừa ứng dụng các nguyên lý vận động cơ bản của âm dương, ngũ hành vào y lý, y thuật trong phần biến dịch và đã hình thành nên các chuyên khoa từ phòng bệnh cho đến chữa bệnh mà ngành học thuật Đông y đã tồn tại cùng với lịch sử phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là các dân tộc Á đông.

Cho nên, trong kho tàng kiến thức y học đâu đâu cũng thấy âm dương ngũ hành, đâu đâu cũng thấy hàn nhiệt, hư thực, chính tà, đâu đâu cũng có thịnh suy, sanh khắc chế hoá, toàn là từ ngữ triết học trong Kinh Dịch mà thuật ngữ y học không thể đem vào thay được .v.v...

Từ đó Kinh Dịch nếu được ứng dụng vào những việc nhỏ của một cá nhân từ việc tu thân, tề gia đến các chuẩn tắc về hành vi ứng xử trên các mối quan hệ của mỗi con người cho đến những việc lớn như định quốc an dân, xây dựng cộng đồng quốc gia hùng mạnh tất cả đều có đủ và rất chi tiết, rỏ ràng. Dựa trên cơ sở này mà nghành Đông y mới ứng dụng để rèn luyện phẩm chất toàn diện cho người thầy thuốc đặc biệt là về y đức

. Vì nghành y không như các ngành khoa học khác, người thầy thuốc có y đức thì họ mới có thể dùng y thuật để trị bệnh cứu người, còn trái lại là họ sẽ dùng y thuật để hại người trên nhiều ý nghĩa? Lý do là không có ngành khoa học nào lại mang tính đặc thù như của ngành y.

Đặc thù vì tất cả đối tượng của người thầy thuốc là bệnh nhân đều không hiểu biết gì về công việc của người thầy thuốc mà vẫn sẵn sàng giao tính mạng mình cho họ, nên người thầy thuốc nói bệnh gì người bệnh cũng phải nghe, đưa thuốc gì cũng phải uống, bảo làm gì cũng phải làm, tính bao nhiêu tiền cũng không được trả giá...Từ những nét đặc thù này mà các y tổ của ngành y thường răn dạy học trò mình rằng: Trước khi học y thì phải học cho thông Kinh dịch, còn trái lại thì đừng nói đến chuyện theo học nghề y " Học y tiên học Dịch, vô Dịch bất thành y" là như vậy.

Trở lại việc ứng dụng phần bất dịch trong Kinh Dịch. Tỷ như quẻ Càn là chuẩn tắc dành cho mọi hành vi ứng xử của người đàn ông, người quân tử, hoặc dành cho những người có chức vị cao nhất trong 1 tập thể, đoàn thể, của 1 quốc gia, lãnh tụ của 1 dân tộc, là thiên tử của các nước chư hầu, người cha, người chủ của 1 cơ sở, của 1 gia đình nào đó.

Quẻ khôn là chuẩn tắc cơ bản cho mọi hành vi của người phụ nữ, người mẹ, người vợ, bậc mẫu nghi thiên hạ, bậc mệnh phụ, bậc tể tướng, người thừa hành mệnh lệnh cấp trên, là kẻ chư hầu của 1 quốc gia lớn, người con trong 1 gia đình, người dân trong 1 quốc gia, dân tộc hay cộng đồng, tín ngưỡng nào đó.v.v...
Nếu học và làm theo đầy đủ 2 đạo lý này thì gần như con người đã hoàn thiện về nhân cách .Vì trong 64 đạo lý chỉ có 2 quẻ này mới có đầy đủ 4 đức lớn của trời đất là: Nguyên, Hạnh, Lợi, Trinh mà khi được vận dụng thì nó sẽ trở thành 4 đức lớn của con người đó là: Nhân, Lễ, Nghĩa,Trí. Trời đất nhờ có 4 đức này mới được tồn tại mà sanh hoá, nuôi dưỡng, chở che vạn vật, có 4 đức này thì con người mới thật sự là 1 con người đúng nghĩa. Còn muốn học tập, tu sửa cho thật đầy đủ thì phải cần hiểu biết các quẻ có liên quan đến các lĩnh vực này.

Còn các lãnh vực khoa học thì có đạo lý quẻ Sư là chuẩn tắc của đạo dùng binh, của 1 vị tướng thống lĩnh quân đội. Làm kinh tề thì có quẻ Ích và quẻ Tổn dùng trong 1 quốc gia, 1 gia đình,1 cơ sở làm ăn nào đó, nếu muốn ích nước, lợi nhà thì dùng quẻ Ích, muốn hại người lợi ta thì dùng quẻ Tổn. Đạo nhà thì có chuẩn tắc của quẻ Gia nhân. Đến như phạm trù của tôn giáo muồn tu hành thì phải theo chuẩn tắc của quẻ Vô vọng, đắt đạo thành phật, thành tiên thì phải hành theo quẻ Cấn.v.v...

Sau đây, xin được nêu ứng dụng 1 đạo lý của quẻ Thủy địa tỷ theo trình tự sau:
Theo quy luật tự nhiên, trong cuộc sống của nhân loại nếu chỉ có 1 con người đơn độc thì họ sẽ không thể nào sống được mà phải có sự liên kết chặt chẽ với mọi người, tạo nên sức mạnh chung thì mới có thể tồn tại và phát triển được. Do đó sau khi tạo mối quan hệ, thu hút được 1 số người qui tụ lại thì việc tiếp theo là phải thực hành chuẩn tắc của đạo lý này thì mới tạo nên được lợi ích .

Trước hết, quẻ Thủy Địa Tỷ có nghĩa là mọi người hòa thuận, đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, hay còn gọi đây là đạo lý đại đoàn kết theo nghĩa ngày nay. Vậy cấu tạo hình thành nên quẻ Tỷ và nguyên tắc của đạo lý này như thế nào?

Đạo lý quẻ này nằm trong 64 quẻ của Kinh Dịch. Tất nhiên nó cũng được kết hợp giữa nguyên lý vũ trụ, hay quy luật của tự nhiên và hình tượng của tự nhiên mà cấu tạo, hình thành nên.

Đạo Tỷ đó là quẻ Thuỷ địa tỷ. Đây là hình tượng của nước ở trên, đất ở dưới. Đặc tính về nguyên lý của nước là chảy từ trên cao xuống thấp và nó rất cần có đất để tụ lại thành sông biển, ao hồ. Còn đất thì có đặc tính hấp thu, vận hóa cũng rất cần có nước để được tưới nhuần... Nên lời Kinh quẻ Tỷ nói: "Các vật thân liền khắng khít nhau không có gì ngăn cách được, không có thứ gì bằng nước ở trên đất". Vì nước cần có đất để chảy xuống và ngấm sâu vào lòng đất rồi tụ lại làm thành công dụng của sông suối tưới nhuần nuôi sống vạn vật. Còn đất nhờ có nước mới được thấm nhuần để sanh hoá, dưỡng nuôi cho muôn loài vạn vật.

Đời sống con người cũng vậy, nếu chỉ có 1 mình thì không thể nào tồn tại được. Do đó khi được sanh ra thì ai cũng tự nhiên và đương nhiên đều có sự liên kết chặt chẽ nhau bằng tình cảm yêu thương, đầu tiên là cùng với gia đình. Khi lớn lên thì mỗi người sẽ tự tìm cho mình các mối liên kết khác để làm ăn sanh sống. Cho nên 1 gia đình hay 1 cộng đồng, 1 quốc gia dân tộc nào cũng vậy, không thể nào khác đi được.

vì có tìm được các mối liên kết thì mới thực sự đảm bảo an toàn cho sự sống, còn ngược lại hoặc ai đó tự cho mình đủ sức đủ tài, không cần thiết lập các mối liên hệ với bất cứ ai mà vẫn tồn tại được là không thể có việc đó bao giờ.Như lời Kinh viết:" Những thứ sanh ra trong trời đất không thứ gì mà không được thân liền khắng khít nhau mà có thể tồn tại.Tuy rất cương cường nhưng chưa có kẻ nào đứng được 1 mình, cho dù đấng trượng phu cũng hung huống chi là kẻ nhu nhược".

Nhưng để tạo sự liên kết lời Kinh cũng nói:"Tỷ cát, nguyên phệ, nguyên, vĩnh, trinh, vô cữu. Bất minh phương lai, hậu vô hung". Có nghĩa: Đã có nhiều người sống với nhau thì phải thực sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau thì đời sống mới được phát triển tốt đẹp, nhưng phải thận trọng xem mụch đích qui tụ cùng nhau để làm gì rồi sau đó mới tìm đối tượng để liên kết? Đây là 1 yêu cầu quan trọng trước khi thực hành liên kết với bất cứ ai.

Tỷ như mục đích của ta dùng vào việc ích nước lợi dân thì phải tìm những người có mưu lược tài ba, thật lòng yêu nước. Cần cho công việc làm ăn thì tìm những người có chuyên môn, nhiệt tâm trong lãnh vực của mình cần,tìm bạn thì tìm những người tri âm, tri kỷ v.v...Nói chung, ta có nhu cầu phát triển ở lãnh vực nào thì phải tìm người trong lãnh vực đó mà liên kết.

Nhưng sự đoàn kết này nhất thiết phải nhằm tạo ra lợi ích tốt đẹp chung thì mới đúng vào trọng tâm của đạo lý này và nhất định sẽ thành tựu. Còn để cùng nhau làm những việc tà mị, vì lợi ích cá nhân hoặc cùng nhau gây phương hại đến lợi ích cho mọi người thì không thể thực hành đạo lý này, vì sẽ thất bại to lớn vậy.
Và điều tiếp theo là phải thực hành 3 chuẩn tắc của đạo lý này thì mới đem đến sự thành công và không bị thất bại hay ân hận sau này.

Trước hết là người phải có đức Nguyên.
Nguyên là đức đầu tiên trong 4 đức của đạo trời. (Càn) Cho nên, việc đầu tiên là họ phải là người có ý chí kiên cường, có quyết tâm cao, có lập trường vững chắc, có bầu nhiệt huyết thật sự trong sáng, thật sự có tài năng lẫn đức độ trong lãnh vực mà mình liên kết.

Mặt khác Nguyên còn có nghĩa là đầu cả. Đầu cả có nghĩa là người đó trước hết phải có đức nhân, vì nhân, là người anh minh, bác lãm được vấn đề, hoặc đó là bậc thánh nhân đang thi hành đạo lý của bậc đế vương, của bậc quân trưởng, của 1 lãnh đạo, của 1 lãnh tụ, là chủ nhân, là người trên trước, đạo cao đức trọng...Nguyên đầu còn là bậc trí nhân, người chủ trì cho mọi việc nhân, việc thiện nếu mình tìm người để tôn thờ, phục vụ dưới quyền họ. Còn mình cần tìm người cộng tác dưới quyền thì mình phải là người ở vị trí và có đức độ này thì mới được mọi người tôn kính.

Chuẩn tắc thứ 2 là đức Vĩnh.
Vĩnh có nghĩa là lâu dài. Sau khi được liên kết chặt chẽ với nhau rồi thì mối quan hệ này phải được nuôi dưỡng lâu dài; đồng cam cộng khổ, hoạn nạn có nhau luôn trung thành, chung thuỷ, sống chết có nhau.

Chuẩn tắc thứ 3 là phải có đức Trinh.
Trinh có nghĩa là người thật sự trong sáng, chân chính và giữ được đức độ này bền bỉ, không thay đổi vì mục tiêu chung. Không lợi dụng chiêu bài đoàn kết yêu thương nhau để lường gạt, trục lợi bất chính hay câu kết nhau xâm hại đến lợi ích của người khác.

Tóm lại, nếu biết thận trọng suy tính dựa theo 3 chuẩn tắc này thì sẽ liên kết được với mọi người, thống nhất được thiên hạ, vạn sự đều được thành công. Còn lại điều cân nhắc là phải xem người nào có đủ 3 đức này thì mới liên kết, không hội đủ thì không nên gần. Nhưng với điều kiện là mình cũng phải có đủ 3 đức này thì mới nói đến việc liên kết với mọi người được. Duy khác nhau ở chỗ mình tìm người trên để phục vụ cống hiến, hay tìm người để cộng sự dưới quyền mình mà lựa chọn cho phù hợp.

Ứng dụng đạo lý này nếu là kẻ bề trên tìm sự liên kết cùng người dưới thì người xưa gọi đó là" đạo cầu hiền".Các bậc vĩ nhân từ cổ chí kim dựng thành đại nghiệp tên tuổi ghi vào sử sách đều là nhũng người thực hành rất tốt đạo lý này.
Còn người dưới muốn liên kết với người trên để được nương nhờ thì gọi là "Tìm chủ để thờ",mà hình ảnh của câu ca dao" Chim khôn chọn cây lành mà đậu, tôi hiền tìm chủ thánh mà thờ", đã nói lên được ý nghĩa của đạo lý này. Ngoài ra khi đã liên kết nhau rồi thì cũng phải cần tuân thủ những giai đoạn mà lý lẽ trong các hào đã nêu ra cũng như kịp thời ứng xử những tình huống bất lợi thường đưa tới.

Tỷ như hào sơ là giai đoạn mới bắt đầu liên kết thì điều cốt lõi là 2 bên cần giữ cho nhau chữ tín chứ không thể đòi hỏi gì hơn. Qua đến giai đoạn hào 2 thì cần phải ra sức hoàn thành tốt những việc của mình để chứng tỏ bản lĩnh và thiện chí của mình chớ chưa lúc phải cần đến lợi ích vội. Đến giai đoạn của hào 5 và thực hành tiêu chí của nó được thì lợi ích lúc đó tự nó sẽ tìm về, không phải đi đâu tìm kiếm v.v...

Tóm lại, trên đây chỉ đơn cử sơ lược 1 quẻ trong Kinh dịch được tiền nhân ứng dụng làm thành 1 đạo lý, cho 1 lĩnh vực hành xử của con người trên các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống. Và lẽ tất nhiên, muốn thực hành đạo lý này cho thật tốt thì phải hiểu và thực hành theo các đạo lý khác có liên quan. Tỷ như muốn thực hành chử Tín thì phải làm theo đạo lý của quẻ Phong trạch trung phù, muốn thực hành đức khiêm tốn thì phải làm theo đạo lý của quẻ Địa sơn khiêm v.v...thì mới đầy đủ, hoàn thiện được...

2/ Ứng dụng phần biến dịch

- Nói thêm về nghĩa biến dịch:
Xuất phát từ quan điểm chỉnh thể của chủ thuyết "thiên địa vạn vật đồng nhất lý" trong quá trình tồn tại và phát triển, mọi biến đổi của quy luật âm dương đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi con người. Ngược lại mọi hành vi vận động của con người cũng đều ảnh hưởng đến tiến trình vận động của quy luật Âm Dương và con người phải đón nhận sự tác động này trên mọi lãnh vực của cuộc sống. Do đó, những hiện tượng của thiên tai, dịch hoạ gây tang thương chết chóc cho con người đâu đâu cũng thấy. Cũng như cuộc sống con người luôn phải chịu sự hoạ phúc, thăng trầm luôn nối tiếp nhau mà ai ai cũng gặp và không có cách nào thoát ra được.

Lý do là khí của âm dương được vận hành theo quy luật, có thứ tự, thuận nghịch, có trên dưới trước sau...Do đó, con người sống là phải thuận theo thứ tự đó thì mới tồn tại và phát triển được. Còn ngược lại cứ sống bừa theo bản năng không cần phải trái, chẳng biết đúng sai thì đó là sống theo chiều ngược lại và những người này tất phải bị nó trừng phạt hay sẽ huỷ diệt đi.

Cho dù đã có 64 đạo lý trong Kinh Dịch được phát triển ra đều khắp dưới mọi hình thức từ luật pháp quốc gia, trật tự kỷ cương của xã hội, tôn chỉ giáo điều của các tôn giáo chân chính... Nhằm giúp cho con người sống và hành xử đúng theo cương vị của mình, thuận theo quy luật của tự nhiên.

Nhưng đời sống của vũ trụ không phải lúc nào cũng thuận theo như vậy mãi mà nó luôn luôn biến động thất thường. Và mỗi lần như vậy là nó đều sản sinh ra nhiều quy luật khác để cân bằng mà kết quả của nó đem lại cho đời sống của mỗi con người cũng không thể nào đo lường hết được. Vì thế Dịch còn nghĩa thứ 2 là biến dịch.

Nếu ở nghĩa bất dịch cổ nhân dùng 64 quẻ để ứng dụng làm nguyên tắc cho 64 đạo lý trong xã hội, thì ở nghĩa biến dịch này cũng dùng 64 quẻ để bố cục và ứng dụng hầu hết các quy luật âm dương, quy luật của ngũ hành để đo lường, tiên liệu kết quả cho mọi tình huống biến động trong từng sự việc, trên từng lãnh vực của cuộc sống .

- Sơ nét về phương pháp ứng dụng:
Phương pháp căn bản, chính thống để ứng dụng phần biến dịch trong Kinh dịch là Bốc dịch. Phương pháp này dùng định luật thiên địa vạn vật đồng nhất lý làm căn bản và dùng tất cả nguyên lý động, tịnh của âm dương vũ trụ làm nguyên tắc để biện lý, biện đến cùng thì lý sẽ tỏ thông, tỏ thông thì kết quả sự việc sẽ được phơi bày ngay trong lý lẽ đó.

Như lời Kinh viết :"Thiên địa vạn vật đồng nhất lý; âm dương là khí, động thì sẽ biến ra thành lý của sự việc mà hễ khí nào động thì sẽ biến ra lý ấy, lý nào động thì sẽ biến ra thành khí ấy. Hễ có khí ấy thì phải có lý ấy, có lý ấy thì phải có khí ấy. Muôn việc, muôn vật ở gầm trời này cái gì không ở lý ấy mà ra ? Cái gì không ở âm dương mà ra ?". Và "Vật cùng thì biến, khí mãn thì khuynh cho nên vật đã động thì phải biến: dương cực biến thành âm, âm cực biến thành dương. Nhưng hễ động chỗ này thì tụ vào chỗ khác đều do chữ cực, chữ động mà ra".

Tuy nhiên, quy luật của tự nhiên trong trạng thái bình thường là vật cùng thì phải biến, nhưng biến thì cũng sẽ biến theo quy luật của nó. Có nghĩa là khí trời đất quá nóng thì lý của nó sẽ biến thành mưa, mưa gió đã cùng cực rồi thì tất cả sẽ biến về thể khí của nó là trời quang mây tạnh. Tuy nhiên cũng thường khi, khí của nó nóng cùng cực nhưng nó lại biến thành lý của hạn hán, đốt thiêu vạn vật mà không biến được thành mưa, cũng như mưa đã cùng cực lại biến thành lũ lụt v.v...
Trong hiện tượng đời sống cũng vậy, lúa giã thành gạo, gạo nấu thành cơm nếu chưa giã thì lúa còn nguyên lúa, gạo chưa nấu thì gạo còn nguyên gạo. Nhưng cũng có khi lúa giã thành tấm, gạo nấu thành cơm nhão, cơm khê...Hoặc con người hễ làm việc thiện thì lý của nó sẽ gặp được sự tốt lành, kẻ gian tà phải bị trừng phạt. Nhưng cũng có khi người làm việc thiện thì lý của nó lại biến thành hoạ hại liên miên, còn kẻ gian tà lại được cái lý sống giàu sang phú quý...Tất cả đều do chữ cực, chữ động biến dời tráo trở của quy luật âm dương.

Cho nên khi biến động có khi nó biến thành sự tốt làm cho ta toại nguyện, lại cũng lắm khi biến thành sự xấu làm cho ta đau khổ buồn phiền mà đời sống có lúc thành công, có khi thất bại và được, mất, bại, thành luôn được nối tiếp nhau

Dựa trên cơ sở này, Dịch chia 2 giai đoạn để ứng dụng :

Giai đoạn thứ nhất là dùng 3 đồng tiền xưa để làm phương tiện truyền đạt tín hiệu, mang từ trường của người bị động đến nơi được biến hoá thông qua lực hấp dẫn từ trường của thiên địa mà nhận sự phản hồi bằng kết quả của sự việc

Cụ thể là bất cứ sự biến động nào mà con người thật sự quan tâm, thật sự phân vân, nan giải hay nghi hoặc, ngờ vực bất cứ việc chi thì tập trung cao độ vào việc ấy. Rồi dùng 3 đồng tiền trong lòng bàn tay giây lát để 3 đồng tiền nhận tính hiệu thật tốt từ trường biến động nầy của ta. Sau đó 2 tay úp lại lắc vài lần và cho từng đồng xuống khoảng không, rơi định vị xuống mặt bằng nào đó để nhận sự phản hồi của thiên địa thông qua việc 3 đồng tiền này nằm sấp hay ngửa mà quy nạp nó thành hào động hay tịnh của khí âm dương.Và mỗi quẻ dịch có 6 hào thì phải gieo 6 lần tính từ dưới lên trên.

Điều cần lưu ý là căn cứ vào nguyên lý "vật cùng tắc biến" thì người đến hỏi phải thật sự bất an, việc phải thật sự nan giải, thật sự quan tâm cùng cực thì mới được xem là đã động, vì có phát động thì mới biến ra kết quả được. Còn không phải như vậy thì đó là trạng thái khí của nó còn an tịnh, hoặc mơ hồ động tịnh chưa phân thì tiên quyết sẽ không có biến hoá và tất cả trạng thái này đều không được dùng vì nó không phải là động biến của qui luật âm dương.

Về nguyên tắc này, người xưa có dặn: "Không có việc không hỏi, không bị ảnh hưởng không xem, không động lòng đến sự việc cũng không xem, việc không cần cũng không xem, không khác thường cũng không xem"...

Và chỉ được hỏi 1 lần cho 1 sự việc dựa theo chuẩn tắc của quẻ Mông là đạo lý của kẻ mờ tối mông lung muốn được người hiền nhân khai sáng. Tỷ như trong hệ từ quẻ Mông có viết:"Quẻ Mông hanh, chẳng phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ đó tìm ta. Hỏi lần đầu ta đã bảo cho, nếu hỏi 2-3 lần là nhàm, ta không bảo. Lợi về sự chính".

Có nghĩa, sở dĩ người làm Dịch chỉ bảo thông suốt được cho người đang bị động tinh thần bị hoang mang, tối tăm là chính vì người đó tự tìm đến hỏi, chớ không phải người làm Dịch bảo họ đến xem. Nhưng hỏi lần đầu thì lý tụ nên giảng giải được tận tường, còn hỏi 2-3 lần thì người xem đã sanh ý tưởng nhàm chán, lý không còn tụ thì không nên nói nữa. Và mọi việc người làm Dịch đều phải dựa vào lợi ích chính đáng của người hỏi mà chỉ dạy, còn hỏi việc tà mị, bất nhân thì chớ có trả lời vậy.

Sang giai đoạn thứ 2.

Sau khi đã lập quẻ xong thì dùng tất cả quy luật của âm dương, quy luật của ngũ hành xem xét sự động tịnh của nó mà phân biện, chế hoá để chuyển sự động tịnh của nó từ thể khí biến thành lý của sự việc như thế nào? Vì một khi Lý đã định rồi thì lời lẽ của sự việc cát, hung, hoạ, phúc đều nằm ở bên trong. Và hệ từ Kinh Dịch nói:"Bát quái dĩ tượng cáo, hào tượng dĩ tình ngôn". Có nghĩa là khi 8 quẻ đã định thì đó là 1 sự kiện vừa thông báo, vừa cảnh cáo cho con người biết về sự cát, hung của sự việc bằng hình tượng của thiên nhiên và hình tượng âm, dương của mỗi hào sẽ nói rõ lý, tình đang ẩn tàng ngay bên trong đó.

Còn để thông đạt lý, trong chương động tịnh âm dương biến đổi có nói :"Muốn thông đạt lý thì phải làu thông các quy luật của âm dương, sanh khắc của ngũ hành mà chế hoá như: động, tịnh, sanh. phò, cũng, hiệp, hình, xung, khắc, hại, tử, mộ, tuyệt, không; trong sanh có khắc, trong khắc có sanh, xung trung phùng hiệp, hiệp xứ phùng xung...rất nhiều thứ, đó gọi là lý. Phải luận cho đúng, mỗi loại là 1 lý, mỗi lý là 1 định luật không thay đổi

Cho nên khi lặp quẻ xong, âm dương động biến đã định thì phải lấy từ đầu quẻ luận cho đến giữa, từ giữa luận cho đến chót thì mới thông đạt lý, lý đã đạt thì sự việc của lý ấy nằm ở bên trong". Khác với việc ứng khẩu phán đoán cát hung vô nguyên tắc, không lý lẽ của số người hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc lòng người vậy.

Sau cùng xin giới thiệu 2 quẻ đã lập thành:

Quẻ 1 được ghi trong Tả Truyện là sách lịch sử của Trung Quốc có ghi.

Đời Tương Công năm thứ 9 Mục Khương là mẹ của Lỗ Thành Công thông gian cùng quan đại phu Kiều Như và cùng âm mưu phế bỏ ngôi vua của Thành Công. Việc bị bại lộ, Mục Khương bị nhốt vào lãnh cung bà muốn biết vận mệnh của mình ra sao thì xin được quẻ Thuần cấn biến Trạch lôi tuỳ. Bà hỏi 1 vị quan nọ tìm lý cát hung, ông xem xong bảo bà trốn đi, nhưng bà cũng tinh thông Dịch nên nói:"Tôi là người phụ nữ không đủ tài đức lại chuốc lấy tội ác, làm việc có hại đến mình, loạn quốc hại dân làm sao không có tai hoạ được nên tôi đành phải chết tại đây thôi làm sao có thể trốn được".

Về sau đúng như vậy.

Thế....O...... ...........Dần....Quan Quỷ............ Mùi Huynh đệ

.........X....... Tý......Thê tài................. Dần Tử tôn

.........X....... Tuất...Huynh đệ.............. Hợi Thê tài

Ứng... O..................Thân...Tử tôn................. Thìn Huynh đệ

.........//....................Ngọ... Phụ mẫu

.........X....... Thìn...Huynh đệ...............Tý Thê tài

Luận giải: Quẻ cấn là núi nghĩa của nó là đình chỉ, bất động không chạy trốn được.Trong quẻ loạn động hết 5 hào là việc rắc rối không thuận.

Mục Khương là nữ nên ở ngôi âm, nay hào thế của bà lại ngôi dương là bất chánh lại không được chỗ trung đó là người bất chánh bất trung thì sẽ gây nên mầm ác. Nay lại phát động là đã gây nên điều bất trung bất chánh ấy rồi.

Hào thế ở hào lục là bà đang ở ngôi cao cực địa, mà biến động thì sẽ đi xuống vậy.

Hào ứng thân kim tử tôn là vua Thành Công con bà đang động đến khắc thế thì rõ ràng tai hoạ này là do con hình phạt mẹ nên bà bị nhốt vào lãnh cung.

Hào thế dần mộc hoá mùi thổ động hoá nhập mộ, mộ là lao ngục là tự bà hành động đưa đến kết quả mình phải vào tù tội và chết trong lao ngục.

Quẻ thứ 2:

Có người đang làm máy che trên sân thượng, đến ngày lợp thì nghe đài khí tượng thủy văn báo khẩn cơn bão số 7 đang kéo về thàng phố với cường độ gió từ 200-300km/giờ, kèm theo mưa to trong 2 ngày tới và cảnh báo mọi người phải chằng chóng nhà cửa cho thật kỹ, bằng không thì sẽ không chịu nổi sức tàn phá của cơn bão này.

Người chủ nhà cùng người thầu nghe xong hoảng sợ và họ thống nhất nhau ngưng thi công lợp máy, chờ cho cơn bão đi qua. Vì tấm lợp bằng nhựa cao cấp, mỗi tấm lại có diện tích lớn nếu đang thi công bị giông bão thì rất nguy hiểm và không thể thực hiện được ?.

Có người am tường Dịch vội lần tay tính quẻ xem cường độ và sức tàn phá của bão vào nơi nầy có nguy hiểm như đài đã cảnh báo không?

Tháng hợi, ngày kỷ mùi, giờ quí dậu. Được quẻ Sơn địa bác biến Khôn.

........O...... Dần....Thê tài.......Dậu....Huynh đệ

Thế....//.......Tý......Tử tôn

........//........Tuất... Phụ mẫu

.........//........Mẹo...Thê tài

Ứng....//.......Tỵ.......Quan quỉ

.........//........Mùi..... Phụ mẩu

Đoán rằng: xem phong ba bão tố có tỵ hỏa quan quỉ trì lâm hào ứng thì đài khí tượng cảnh báo có bão thật đúng không sai.Nhưng tỵ hỏa đang bị tuyệt, bị chơn không ở mùa đông lại còn bị nguyệt kiên xung phá thì uy lực và sức tàn phá của nó sẽ không lo ngại như lời cảnh báo.

Xem bão kèm mưa to vào ngày thân dậu thì mùi thổ phụ mẫu tuy lâm nhật thần nên quang cảnh bầu trời rất ảm đạm như bão dữ sắp kéo đến nơi. Nhưng mùi thổ lại an tịnh, bị hưu tù ở mùa đông, nguyên thần quan quỉ cũng an tịnh lại còn bị thương tổn nặng thì ngày thân dậu không thể có mưa to?

Duy có dần mộc thê tài sanh hiệp với nguyệt kiên nhưng nhập mộ tại nhật thần, lại động hóa dậu kim hồi đầu khắc trở lại thì nó không thể đến khắc phụ mà cũng chẳng sanh được quan mà động hóa huynh thì đó là cơn bão chỉ dừng lại quang cảnh mặt trời, mặt trăng bị mây cao che khất và gió nhẹ kéo mây bao phủ ngày đêm.

Đến ngày thân xung khai dần mộc thì mặt trời sẽ xuất hiện và bão cũng dứt chớ không phải ngày thân dậu có mưa to.

Sau quả y lời không có giông bão. mưa to nào cả mà chỉ thấy mấy ngày liền không thấy mặt trời, mặt trăng vì gió mây giăng tứ phía. Sáng ngày thân đài khí tượng thông báo cơn bão đã suy yếu và tan biến dần vào lúc 2-3 giờ sáng nay.

Tóm lại, ai đã làu thông và ứng dụng được Kinh Dịch vào đời sống thì có thể tự tin mà nói như Khương Tử Nha rằng: "Tay áo đựng được càn khôn, cái bầu thâu được nhật nguyệt" là có thật vậy! Vì trên họ thông được thiên văn, biết được các hiện tượng gió mưa sấm chớp lụt lội bao giờ nó đến, đến vào ngày tháng năm nào, khi nào nó đi!?

Dưới am tường được địa lý, giữa hiểu được thịnh suy bĩ thái được mất bại thành của mọi sự việc trên thế gian này. Như lời cổ thư nói:"Âm dương bát quái định càn khôn, 6 hào thấu đáo việc như thần, trên đoán trời dưới đoán đất, thiên hạ cát hung điều hiện rõ".

Trong thời đại ngày nay để tìm thấy người ứng dụng được hoàn toàn 2 nghĩa này của Kinh Dịch thì tôi chưa được tìm thấy còn nếu chỉ ứng dụng phần biến dịch này thì thật sự tôi chỉ nghe và biết được 2 người. Đó là ngài Thiệu Vĩ Hoa cháu 29 đời của Thiệu Khang Tiết _ nhà triết học Phương Đông nổi tiếng thời nhà Tống, hiện nay là tổng giám đốc trung tâm dự đoán Thiệu Vĩ Hoa của 3 thành phố lớn của Trung Quốc, là thành viên hội Dịch học quốc tế được nhà nước Trung Quốc xếp ông vào danh mục danh nhân đương đại Trung Quốc. Thông qua các bộ sách của ông viết quảng bá việc ứng dụng phần biến dịch này được bày bán trên khắp thế giới trong đó có Việt Nam mà tôi tìm thấy.

Sách của ông dịch ra từ bố cục đến từ ngữ rất dễ coi, dễ hiểu theo thời đại ngày nay.Nhưng còn bảo để nghiên cứu, học tập thì còn thiếu vài chương nhưng cực kỳ quan trọng và tất cả những văn tự cổ quí giá của Kinh ông cũng chỉ trích tản mạn vài đọan. Điều đó cũng có nghĩa là người học chỉ biết những điều mà ông đã diễn dịch ra chứ không còn cơ sở nào để nghiên cứu để phát triển thêm, hiểu thêm nữa được.

Còn 1 vị,1995 tôi có nghe người miền Tây tôn thầy Tư Luỹ là ông thánh sống ở vùng 7 núi vì ông dùng Dịch nói đâu là trúng đó. Sau nhiều lần về miền tây tìm ông để xem hư thực thế nào, có phải ông đã dùng Bốc dịch lục hào để dự đoán hay ông dùng phương pháp nào khác nhưng tiếc rằng không lần nào gặp.


Cho đến năm 1998 qua vị đại sư vốn là sư đệ của ông cho biết, nơi dừng chân hiện nay của ông đang ở ngoài Bà rịa, Vũng tàu và tôi lập tức ra đó mới gặp được ông.

Qua vài lần tiếp chuyện, t ôi mới thực sự tin lời đồn của mọi người quả thực không sai và ông chỉ dùng phương pháp duy nhất là Bốc dịch lục hào, ngoài ra không dùng phương pháp nào khác. Theo ông, các phương pháp khác ông cũng biết nhưng không dung, vì " nó chết cung" không thống lãnh bao quát khắp cả trời đất, vạn vật như Bốc dịch được.

Hiện ông ngoài 90 tuổi nhưng vẫn còn rất khỏe mạnh.và hơn 20 năm nay ông đã trợ giúp cho vài công ty lớn ở TPHCM với vai trò là cố vấn đặc biệt . Ông xuất thân là 1 tu sĩ, là môn đồ thứ nhì của vị giáo chủ của 1 tôn giáo ở miền Tây trước kia.

Trong thời đại ngày nay, nhân tài Dịch học như ông quả thật là hiếm thấy, ông ví như 1 vì sao lấp lánh trên bầu trời Nam, đất Việt. Nhưng tiếc vì những người trọng dụng ông không phải là người có thể dùng ông vào sự nghiệp làm cho ích nước, lợi dân mà chỉ sở hữu ông để họ được làm giàu và thật sự đến nay thì họ đã quá sức giàu, còn ông thì tuổi trời ngày càng chồng chất thêm lên?!!

Sau bài viết này hy vọng mọi người sẽ có khái niệm cơ bản đúng, về Kinh Dịch cũng như ứng dụng được vào đời sống nhất là đối với những người có nhiệt tâm, lòng đam mê yêu thích môn học này

Vì đây là kho tàng tri thức quý, là "túi khôn" mà thá



Theo: Việt Y Đường
Facebook Technorati Mr. Wong Stumble It! Diigo Google Yahoo MyWeb BlinkList Furl Ma.gnolia Newsvine Reddit Del.icio.us; Digg This!
< Lùi Tiếp theo >
Tin mới hơn:

Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần II - 8 (05/2011)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch Phần II 7 (05/2011)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch Phần II 6 (04/2011)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần II - 5 (04/2011)
TÌM VỀ CỘI NGUỒN KINH DỊCH - PHẦN II - 4 (04/2011)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần II - 3 (04/2011)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần II - 2 (04/2011)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần II - 1 (04/2011)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần II (03/2011)
Quan hệ đặc biệt giữa Chu Dịch với Đông y học (11/2010)

Tin cũ hơn:

Kinh dịch với dự đoán học (05/2010)
HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ (1912-1984) (12/2009)
TẠI SAO CÓ CHUYỆN "CẦM TINH" 12 CON VẬT (11/2009)
Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích (11/2009)
Bát nhã ba la mật-ÐA TÂM KINH (11/2009)
Hướng dẫn cách luận đoán số Tử Vi (11/2009)
Vận khí trong Y học cổ truyền (09/2009)
Cảm nghĩ khi đọc Kinh dịch (07/2009)
Kinh dịch với thuyết tam duy của Đông Y (07/2009)
Kinh dịch và học thuyết âm dương (07/2009)
Bí ẩn khí chất con người theo bát quái (07/2009)
Vũ trụ quan đông Y và các học thuyết (07/2009)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần I - Phụ chương (07/2009)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần I - 7 (07/2009)
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần I - 6 (07/2009)

Trang kế >>

Kham benh online, benh hen, benh dong kinh, benh xoang Thuoc Dong y chua benh xoang, benh hen, benh dong kinh

Chuyên gia tư vấn
0943.968.968
Chuyên gia tư vấn
04.3569.0442 04.3569.0443 04.8587.4711 04.3385.3321
WEBSITE LIÊN KẾT

Chữa bệnh ung thư
Chữa bệnh xoang
Chữa bệnh hen
Chữa bệnh Nam khoa
Chữa bệnh động kinh
Chữa bệnh dạ dày
Chữa bệnh thấp khớp
Chữa bệnh ngoài da
Chữa bệnh nội tiết
Chữa bệnh vô sinh
Bệnh viêm âm đạo
Bệnh tiêu chảy trẻ em
Chữa bệnh đại tràng
Chữa đau mỏi
Châm cứu
Xoa bóp chữa bệnh
Làm đẹp da thảo dược

Bảng quảng cáo
Bảng quảng cáo
Bảng quảng cáo
c44.jpg
gn.jpg
c33.jpg
ca.jpg
c35.jpg
SƯU TẦM

VB PHÁP QUY YHCT
ĐÔNG TÂY Y KẾT HỢP
CÁC BÀI THUỐC HAY
BỆNH HỌC
SỨC KHỎE
THƯ PHÁP
KHÍ CÔNG YOGA
ẨM THỰC CHỮA BỆNH
SPA - LÀM ĐẸP
SINH CON THEO Ý MUỐN
BÀI CÚNG CỔ TRUYỀN
DANH Y
PHONG THỦY
TỬ VI
TÂM LINH
KINH DỊCH
LÀM CHA MẸ
SEX ĐÔNG Y
VUI CƯỜI

TRANG THƠ

THƠ HỌ PHÙNG
THƠ KHÁC

Trang chủ | Dịch vụ | Thương hiệu | Bệnh đã chữa khỏi | Bệnh đặc trị | C.tưởng bệnh nhân | Tư vấn khám bệnh | Đặt mua thuốc | Sức khỏe | Giới thiệu | PS Truyền hình |
Thơ họ Phùng | Phong thủy | Thuốc bổ trường xuân | Hoàn phong thấp | Cao dán phong thấp | Bột dinh dưỡng | Thuốc quý | Thuốc ngâm Rượu | Bản đồ chỉ đường

NHÀ THUỐC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN THỌ XUÂN ĐƯỜNG

CƠ SỞ 1: 99 - PHỐ VỒI - THƯỜNG TÍN - HÀ NỘI ĐIỆN THOẠI: 04.3385.3321

CƠ SỞ 2: SỐ 7 TẬP THỂ THỦY SẢN - NHÂN CHÍNH THANH XUÂN - HÀ NỘI ĐIỆN THOẠI: 04.8587.4711

Hotline: 0943.968.968 - WEBSITE: www.dongythoxuanduong.com - Email: dongy@thoxuanduong.com

Powerby:www.ckc.vn
Tư vấn SEO by Nova
Thuc pham chuc nang - Tham my vien - tri nam da - Triet hoi nach - Triet long - Tri mun - Tri mach mau - Ung thu - Ung thư - Tri tham - Tri nhan - Giam can - nieng rang - Thiet bi y te - Giảm cân - babylon.vn - Hang hieu - My pham cao cap - Qua ve vietnam - Gui hoa ve viet nam - Macbook - Du hoc Uc - San go - Tu bep - Can dien tu - Laptop - Blackberry